Thứ Tư, 29 tháng 6, 2011

LẠI CHUYỆN CÔNG VĂN “SIÊU” LUẬT


NGUYÊN TẤN

Bị buộc phải thực hiện một số yêu cầu không có trong luật, các doanh nghiệp tại TPHCM đang gặp không ít rắc rối khi tiến hành thủ tục thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh.

Trước đây, thủ tục này khá đơn giản. Theo luật, tùy từng nội dung thay đổi, doanh nghiệp chỉ cần gửi thông báo ghi rõ nội dung thay đổi cho cơ quan đăng ký kinh doanh cùng với giấy tờ liên quan đến nội dung thay đổi là xong. Thế nhưng, vài tháng nay các doanh nghiệp bị buộc phải thực hiện thêm một số yêu cầu khác lạ. Đầu tiên là phải “ghi và mã hóa ngành, nghề đã đăng ký kinh doanh theo ngành, nghề cấp bốn trong hệ thống ngành kinh tế Việt Nam”. Yêu cầu này áp dụng chung cho tất cả các doanh nghiệp có nhu cầu thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh. Riêng đối với doanh nghiệp có phần vốn góp hoặc cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài thì còn phải làm thêm thủ tục đăng ký đầu tư, sau khi xong thủ tục này mới được cho phép đăng ký việc thay đổi.

Một công ty cho biết họ chỉ xin thay đổi địa chỉ đặt trụ sở, không hề liên quan gì đến việc thay đổi ngành, nghề kinh doanh cũng bị bắt buộc phải tuân thủ yêu cầu nói trên. Lúng túng nhất là đối với những doanh nghiệp trước đây được đăng ký trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh những ngành, nghề không có trong danh mục hệ thống ngành kinh tế Việt Nam. Trong trường hợp này, theo quy định doanh nghiệp buộc phải chờ cho đến khi những ngành, nghề ấy được bổ sung vào danh mục bởiTổng cục Thống kê. Đây là điều không dễ xảy ra vì quy định như vậy nhưng từ thời điểm ban hành Quyết định 337 về hệ thống ngành kinh tế Việt Nam vào năm 2007 đến nay “đã có lần nào bổ sung đâu”, một luật sư cho biết.

Nhưng đáng lo hơn cả vẫn là về thủ tục đăng ký đầu tư. Giám đốc một doanh nghiệp cho biết công ty của mình có 49% vốn nước ngoài và đã được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh từ năm 2008 với trên chục ngành, nghề. Công ty chỉ đề nghị được thay đổi người đại diện theo pháp luật nhưng vẫn bị bắt buộc phải thực hiện bổ sung thủ tục đăng ký đầu tư, tức phải có giấy chứng nhận đăng ký đầu tư thì cơ quan đăng ký mới cho phép thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh. Nếu thực hiện theo yêu cầu trên, toàn bộ ngành, nghề đã đăng ký sẽ phải đăng ký lại và có thể sẽ có những ngành, nghề phải loại bỏ vì có “yếu tố nước ngoài”. Nói chung, thủ tục sẽ vô cùng phức tạp và có thể sẽ phải chờ đợi dài dài. “Hai loại giấy tờ này thực chất đều chỉ có ý nghĩa là tạo cơ sở pháp lý cho một doanh nghiệp hoạt động. Trong khi đó, chúng tôi đã có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, đang hoạt động bình thường, nay lại bắt làm thêm giấy chứng nhận đầu tư nữa, để làm gì, phục vụ cho ai hay chỉ làm khổ doanh nghiệp?”, vị giám đốc bức xúc.

Giải thích về yêu cầu ghi và mã hóa ngành nghề, trong văn bản trả lời doanh nghiệp, Phòng Đăng ký kinh doanh thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tư TPHCM cho biết là họ thực hiện theo Công văn 8311/BKH-ĐKKD ngày 19-11-2010 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Còn về yêu cầu bổ sung thủ tục đăng ký đầu tư, cơ quan đăng ký kinh doanh không viện dẫn cụ thể văn bản pháp luật nào mà chỉ nêu chung chung là “theo quy định của pháp luật”. Ai cũng biết công văn không phải là một văn bản quy phạm pháp luật và do đó không thể có giá trị bắt buộc thực hiện. Hơn thế nữa, hướng dẫn nói trên của Bộ Kế hoạch và Đầu tư chưa phải thật sự phù hợp pháp luật. Cụ thể, theo giải thích tại Công văn 8311/BKH-ĐKKD cơ sở pháp lý của việc phải ghi và mã hóa khi thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh là dựa trên khoản 4, điều 6 Nghị định 43/2010/NĐ-CP. Tuy nhiên, điều khoản này lại hoàn toàn không đề cập gì đến vấn đề nói trên. Kể cả trong toàn bộ chương V Nghị định 43/2010/NĐ-CP quy định về trình tự, thủ tục thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp cũng không hề có yêu cầu bắt buộc phải ghi và mã hóa ngành, nghề cũng như yêu cầu về bổ sung thủ tục đăng ký đầu tư. Thậm chí, nghị định này còn quy định rằng “các bộ, cơ quan ngang bộ, hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân các cấp không được ban hành các quy định về đăng ký doanh nghiệp áp dụng riêng cho ngành hoặc địa phương mình”.

Như vậy, những đòi hỏi về thủ tục thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh nói trên đã không dựa trên chuẩn mực pháp lý. Mặt khác, việc đặt ra những yêu cầu này còn có thể gây tổn hại đến quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp. “Ví dụ như việc yêu cầu ghi và mã hóa ngành, nghề, thực chất chỉ nhằm phục vụ cho công tác thống kê. Vậy thì lẽ ra đây phải là nghĩa vụ của cơ quan quản lý nhà nước để phục vụ cho lợi ích quản lý nhà nước, chứ sao lại bắt doanh nghiệp đi vào đôi giày do cơ quan quản lý tự đo? Trong hệ thống pháp luật doanh nghiệp các nước tiên tiến, chủ doanh nghiệp có quyền ghi rằng doanh nghiệp sẽ thực hiện mọi hoạt động kinh doanh sinh lời thì sao Việt Nam lại có quy định lạ lùng thế?!”, một luật sư yêu cầu giấu tên phát biểu.

Theo: Thời báo Kinh tế Sài Gòn
Trích dẫn từ: http://www.thesaigontimes.vn/Home/doanhnghiep/quantri/55837/Lai-chuyen-cong-van-“sieu”-luat.html

Thứ Hai, 27 tháng 6, 2011

MỘT SỐ VƯỚNG MẮC KHI CÔNG CHỨNG HỢP ĐỒNG GÓP VỐN BẰNG GIÁ TRỊ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Tuấn Đạo Thanh

Phòng Công chứng số 3 T.P Hà Nội



Với chủ trương phát triển mô hình kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết của Nhà nước, nền kinh tế nước ta đã có những bước phát triển đáng khích lệ với nhiều thành phần kinh tế ngày càng trở nên đa dạng và lớn mạnh không ngừng. Kèm theo đó, các loại hình hợp đồng, giao dịch trong lĩnh vực dân sự, kinh tế, thương mại... cũng ngày càng trở nên phong phú về chủng loại, phức tạp về tính chất, thậm chí đã xuất hiện một số loại hình giao dịch mới, hoàn toàn xa lạ với tư duy pháp lý truyền thống. Giao dịch góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất là một trong những loại giao dịch như vậy. Nếu như tại Bộ luật Dân sự ngày 28/10/1995, chúng ta chưa đề cập đến khái niệm “góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất” thì đến Bộ luật Dân sự ngày 14/6/2005, các nhà làm luật đã dành hẳn một chương (Chương XXXII, Phần thứ năm), bao gồm 06 điều (từ Điều 727 đến Điều 732) để quy định về vấn đề này.

Trước hết chúng ta hãy cùng tìm hiểu khái niệm góp vốn. Theo Từ điển Luật học do Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa - Nhà xuất bản Tư pháp ấn hành năm 2006 thì góp vốn là “Việc nhà đầu tư đưa tài sản dưới các hình thức khác nhau vào doanh nghiệp để trở thành chủ sở hữu hoặc đồng chủ sở hữu doanh nghiệp” và “Tài sản góp vốn có thể là tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, kim loại quý, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật hoặc tài sản khác được pháp luật cho phép” còn Khoản 4, Điều 4, Luật Doanh nghiệp ngày 29/11/2005 cho rằng “Góp vốn là việc đưa tài sản vào công ty để trở thành chủ sở hữu hoặc các chủ sở hữu chung của công ty. Tài sản góp vốn có thể là tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật, các tài sản khác ghi trong Điều lệ công ty do thành viên góp để tạo thành vốn của công ty”. Tuy ngôn từ cụ thể có khác nhau nhưng về bản chất, cả hai khái niệm dù mang tính chính thống hay mang tính học thuật đều có chung một cách nhìn nhận, quan niệm về thuật ngữ pháp lý “góp vốn”. Theo cả hai khái niệm nêu trên, góp vốn chính là việc cá nhân hoặc tổ chức đưa tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng hợp pháp của bản thân vào trong công ty nhằm tạo lập ra vốn điều lệ của công ty đó. Bằng hành vi góp vốn, bên góp vốn sẽ trở thành chủ sở hữu hoặc đồng chủ sở hữu của công ty nhận góp vốn. Về nguyên tắc, tài sản đem góp vốn có thể là toàn bộ các loại tài sản cũng như quyền tài sản theo quy định của pháp luật dân sự, trị giá được bằng tiền và tự do chuyển nhượng thông qua giao dịch. Đặc biệt cả hai khái niệm nêu trên đều khẳng định giá trị quyền sử dụng đất là một loại tài sản được pháp luật cho phép đem góp vốn. Điểm đáng lưu ý nhất ở đây là việc góp vốn sẽ làm chuyển quyền sở hữu hoặc sử dụng tài sản từ bên góp vốn sang công ty nhận góp vốn. Cơ sở pháp lý cho nhận xét này chính là nội dung Điều 29, Luật Doanh nghiệp ngày 29/11/2006, theo đó “Thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh và cổ đông công ty cổ phần phải chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn cho công ty theo quy định sau đây”. Như vậy ,về mặt nguyên tắc việc góp vốn sẽ làm thay đổi chủ sở hữu và sử dụng của tài sản đem góp vốn cho dù đối tượng của hợp đồng góp vốn là loại tài sản hay quyền tài sản nào, bao gồm cả quyền sử dụng đất. (xem tiếp nội dung Điều 29, Luật Doanh nghiệp ngày 29/11/2006 kể trên).

Theo những tài liệu mà chúng tôi có điều kiện tiếp cận, giao dịch góp vốn bằng quyền sử dụng đất lần đầu tiên được chính thức thừa nhận trong Luật Đất đai ngày 14/7/1993, được sửa đổi, bổ sung ngày 2/12/1998. Minh chứng cho nhận định này chính là nội dung của Chương IV, Luật Đất đai ngày 14/7/1993, được sửa đổi, bổ sung ngày 2/12/1998. Khi quy định về “Quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất” các nhà làm luật đã khẳng định người sử dụng đất “Được quyền góp đất để hợp tác sản xuất, kinh doanh theo quy định của pháp luật phù hợp với mục đích khi giao đất” (xem Khoản 7, Điều 73, Luật Đất đai ngày 14/7/1993, được sửa đổi, bổ sung ngày 2/12/1998). Tuy nhiên, theo đánh giá của chúng tôi chỉ đến khi các đạo luật khác có liên quan đến giao dịch góp vốn nói chung và góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất nói riêng được hoàn thiện thì loại hình giao dịch này mới trở nên phổ biến, tạo thành một trong những công cụ pháp lý hữu hiệu nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên khi cùng nhau hợp tác sản xuất, kinh doanh dưới hình thức góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất. Dưới đây chúng ta sẽ cùng tìm hiểu một số quy định cụ thể của pháp luật về góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất.

Điều 727, Bộ luật Dân sự ngày 14/6/2005 quy định “Hợp đồng góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó người sử dụng đất (sau đây gọi là bên góp vốn) góp phần vốn của mình bằng giá trị quyền sử dụng đất để hợp tác sản xuất, kinh doanh với cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, chủ thể khác theo quy định của Bộ luật này và pháp luật về đất đai”. Do phạm vi điều chỉnh khác nhau nên khái niệm về góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất, chủ thể tham gia góp vốn cũng như nhận góp vốn được quy định tại Bộ luật Dân sự ngày 14/6/2005 đa dạng và rộng rãi hơn hẳn quan điểm về góp vốn được nêu tại Luật Doanh nghiệp ngày 29/11/2006. Sau khi tìm hiểu các điều luật khác có liên quan đến hợp đồng góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất được quy định tại Bộ luật Dân sự ngày 14/6/2005, chúng tôi thấy một số điểm đáng lưu ý hay nói chính xác hơn là những nét đặc thù của hợp đồng góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất như sau:

- Thông thường việc góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất luôn có thời hạn (xem Điều 728, Bộ luật Dân sự ngày 14/6/2005 quy định “Nội dung của hợp đồng góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất”)

- Việc góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất không dẫn đến việc thay đổi chủ sử dụng đối với diện tích đất đem góp vốn (xem Khoản 2 và Khoản 3, Điều 730, Bộ luật Dân sự ngày 14/6/2005 quy định “Quyền của bên góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất”)

- Bên nhận góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất có thể được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích đất đem góp vốn nhưng cũng có thể không (xem Khoản 3, Điều 732, Bộ luật Dân sự ngày 14/6/2005 quy định “Quyền của bên nhận góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất”).

Cụ thể hoá quan điểm lập pháp đã được thể hiện trong Bộ luật Dân sự ngày 14/6/2005, Luật Đất đai ngày 26/11/2003 cũng đã khẳng định quyền được góp vốn bằng quyền sử dụng đất (xem Điều 106, Luật Đất đai ngày 26/11/2003) cũng như quy định rất rõ “Trình tự, thủ tục đăng ký, xoá đăng ký góp vốn bằng quyền sử dụng đất và xử lý quyền sử dụng đất khi chấm dứt việc góp vốn” tại Điều 131 đạo luật nêu trên. Tìm hiểu toàn bộ nội dung Luật Đất đai ngày 26/11/2003 cũng như Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai, chúng tôi không tìm thấy bất kỳ một quy định nào cho phép góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất mà chỉ tồn tại duy nhất khái niệm góp vốn bằng quyền sử dụng đất. Theo quan điểm lập pháp này, tuy góp vốn bằng quyền sử dụng đất nhưng việc góp vốn sẽ không làm thay đổi chủ sử dụng đất. Nói theo cách khác, bên góp vốn chỉ giao cho bên nhận góp vốn quyền sử dụng một diện tích đất nhất định trong một thời hạn xác định (xem Khoản 2, Điều 131, Luật Đất đai ngày 26/11/2003). Nếu như trong Bộ luật Dân sự ngày 14/6/2005, các nhà làm luật sử dụng khái niệm “hợp đồng góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất” thì tại Luật Đất đai ngày 26/11/2003, chúng ta lại thấy xuất hiện thuật ngữ “hợp đồng góp vốn bằng quyền sử dụng đất”. Tham khảo một số quy định có liên quan trong Luật Doanh nghiệp ngày 29/11/2006, chúng tôi thấy khái niệm “góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất” cũng được sử dụng trong đạo luật này. Điểm đáng lưu ý là tại hai Bộ luật Dân sự ngày 14/6/2005 và Luật Đất đai ngày 26/11/2003 đều có chung quan điểm góp vốn bằng quyền sử dụng đất luôn luôn có thời hạn xác định và không làm thay đổi chủ sử dụng đất thì Luật Doanh nghiệp ngày 29/11/2006 lại khẳng định việc góp vốn sẽ làm thay đổi chủ sở hữu hoặc chủ sử dụng đối với tài sản đem góp vốn và quyền sử dụng đất cũng không phải là một ngoại lệ. Tuy nhiên, nếu như Bộ luật Dân sự ngày 14/6/2005 và Luật Doanh nghiệp ngày 29/11/2006 coi “giá trị quyền sử dụng đất” là đối tượng của hợp đồng góp vốn thì Luật Đất đai ngày 26/11/2003 lại cho rằng “quyền sử dụng đất” mới là đối tượng của loại hình giao dịch này. Nếu như chúng ta sử dụng khái niệm “giá trị quyền sử dụng đất” được ghi nhận tại Khoản 24, Điều 4, Luật Đất đai ngày 26/11/2003 theo đó “Giá trị quyền sử dụng đất là giá trị bằng tiền của quyền sử dụng đất đối với một diện tích đất xác định trong thời hạn sử dụng đất xác định” thì các cách quy định như đã mô tả ở trên đều bộc lộ nhiều mâu thuẫn rất khó khắc phục. Rõ ràng, hiện đã có tối thiểu hai cách quan niệm không thống nhất với nhau về tính chất của góp vốn có đối tượng là quyền sử dụng đất. Theo đó đối tượng góp vốn có thể là “giá trị quyền sử dụng đất” hoặc là “quyền sử dụng đất”, có thể có thời hạn hoặc không có thời hạn, có thể dẫn đến việc thay đổi chủ sử dụng hoặc không... Nhìn một cách khái quát nhất, ba đạo luật liên quan mật thiết đến vấn đề góp vốn vào doanh nghiệp có đối tượng là quyền sử dụng đất đang thể hiện ba quan điểm khác hẳn nhau. Quan điểm thứ nhất cho rằng góp vốn bằng quyền sử dụng đất không làm thay đổi chủ sử dụng đất được thể hiện trong Bộ luật Dân sự ngày 14/6/2005. Quan điểm thứ hai khẳng định góp vốn bằng quyền sử dụng đất cũng không có gì khác biệt so với các hình thức góp vốn khác và chủ sử dụng đất sẽ được chuyển từ bên góp vốn sang bên nhận góp vốn được thể hiện trong Luật Doanh nghiệp ngày 29/11/2006. Và quan điểm thứ ba thể hiện trong Luật Đất đai ngày 26/11/2003 có tính chất dung hoà cả quan điểm thứ nhất và quan điểm thứ hai. Tại Luật Đất đai ngày 26/11/2003, các nhà làm luật xây dựng khái niệm “giá trị quyền sử dụng đất” nhưng thuật ngữ pháp lý này không được đưa vào trong những quy định về hợp đồng góp vốn mà thay vào đó, thuật ngữ “quyền sử dụng đất” lại được sử dụng. Đặc biệt, dù sử dụng thuật ngữ “quyền sử dụng đất” nhưng Luật Đất đai ngày 26/11/2003 vẫn cho rằng góp vốn bằng quyền sử dụng đất cũng có thời hạn (xem Khoản 2, Điều 131 đạo luật nêu trên).

Nhìn một cách tổng thể chúng ta có thể chia hợp đồng góp vốn có đối tượng là quyền sử dụng đất ra làm hai hình thức cơ bản như sau. Hình thức thứ nhất là góp vốn bằng quyền sử dụng đất mà theo đó chủ sử dụng thửa đất đem góp vốn sẽ được chuyển từ bên góp vốn sang bên nhận góp vốn. Đối với hình thức góp vốn thứ nhất, bên góp vốn sẽ không còn bất kỳ quyền và nghĩa vụ nào liên quan đến quyền sử dụng đất đem góp vốn kể từ khi hoàn tất thủ tục góp vốn. Trong trường hợp vừa nêu, cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ tiến hành đăng ký sang tên trước bạ từ bên góp vốn sang bên nhận góp vốn tương tự như các trường hợp tặng cho hay mua bán. Ở hình thức góp vốn này, do quyền sử dụng đất đem góp vốn được đăng ký sang tên trước bạ nên khi bên nhận góp vốn thực hiện các quyền và nghĩa vụ với tư cách là chủ sử dụng sẽ không gặp bất kỳ một trở ngại nào. Hình thức thứ hai là góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất. Đây là hình thức góp vốn nhưng không làm thay đổi chủ sử dụng đất và chỉ có giá trị pháp lý trong một thời gian nhất định. Đối tượng của hợp đồng góp vốn kiểu này có thể là đất thuê, đất được giao hay đất được nhà nước công nhận quyền sử dụng đất. Trong thời hạn góp vốn, chủ sử dụng vẫn có quyền chuyển nhượng, để thừa kế... đối với quyền sử dụng đất đã đem góp vốn. Thông thường đối với hình thức góp vốn thứ hai, cơ quan nhà nước có thẩm quyền chỉ xác nhận thửa đất nêu trên đã được góp vốn vào doanh nghiệp X trong thời hạn là Y năm vào ngay giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho bên góp vốn. Và đây chính là nguyên nhân gây ra một số khó khăn, vướng mắc khi chủ sử dụng đất thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình.

Trước khi đi vào tìm hiểu thêm về những vướng mắc mà chúng tôi vừa đề cập, chúng ta hãy cùng xem xét, phân loại các biến thể góp vốn bằng quyền sử dụng đất theo hình thức thứ hai, tức là góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất và có thời hạn xác định. Dựa theo nhiều tiêu chí khác nhau, chúng ta có muôn vàn loại hình góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất không giống nhau. Sau khi tham khảo các quy định của pháp luật có liên quan được ghi nhận tại Bộ luật Dân sự ngày 14/6/2005, Luật Doanh nghiệp ngày 29/11/2006 và Luật Đất đai ngày 26/11/2003... chúng tôi tạm chia loại hình góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất thuộc tình huống thứ hai ra thành một số dạng biến thể cơ bản sau:

Dạng biến thể thứ nhất là góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất để tạo ra một pháp nhân mới. Ở dạng này, một hoặc nhiều bên tham gia thành lập doanh nghiệp dùng giá trị quyền sử dụng đất thuộc quyền sử dụng hợp pháp của bản thân để góp vốn nhằm hình thành nên pháp nhân mới, hoàn toàn độc lập với các thành viên tham gia góp vốn. Ví dụ như Ông Nguyễn Văn A và Ông Nguyễn Văn B thoả thuận cùng góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất để thành lập Công ty Trách nhiệm Hữu hạn X. Theo quy định hiện hành thì dạng góp vốn này, bên nhận góp vốn (pháp nhân mới được tạo lập mà cụ thể là Công ty Trách nhiệm Hữu hạn X) sẽ được cơ quan nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích đất đem góp vốn (xem Khoản 3, Điều 732, Bộ luật Dân sự ngày 14/6/2005 và Khoản 1, Điều 131, Luật Đất đai ngày 26/11/2003)

Dạng biến thể thứ hai là góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất nhưng không tạo lập ra một pháp nhân mới. Ở dạng biến thể thứ hai, chúng ta thấy cũng có thể xảy ra hai trường hợp. Trường hợp thứ nhất, Công ty Trách nhiệm Hữu hạn X đã được thành lập và đang hoạt động theo quy định của pháp luật, Ông Nguyễn Văn A và Ông Nguyễn Văn B thoả thuận với những chủ sở hữu hiện tại của Công ty để góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất nhằm trở thành các chủ sở hữu chung của Công ty Trách nhiệm Hữu hạn X. Như vậy, sau khi nhận phần vốn góp của Ông Nguyễn Văn A và Ông Nguyễn Văn B, số lượng thành viên của Công ty Trách nhiệm Hữu hạn X sẽ tăng lên (bổ sung thêm hai thành viên là Ông Nguyễn Văn A và Ông Nguyễn Văn B), cơ cấu vốn điều lệ cũng thay đổi (có thêm phần vốn góp bằng giá trị quyền sử dụng đất), quy mô vốn điều lệ cũng như tỉ lệ vốn góp của từng thành viên đương nhiên cũng không thể giữ nguyên như cũ... Trong trường hợp thứ hai, Ông Nguyễn Văn A và Ông Nguyễn Văn B đã là chủ sở hữu của Công ty Trách nhiệm Hữu hạn X. Như vậy, việc góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất của Ông Nguyễn Văn A và Ông Nguyễn Văn B chỉ có thể làm thay đổi cơ cấu vốn điều lệ (có thêm phần vốn góp bằng giá trị quyền sử dụng đất), quy mô vốn điều lệ cũng như tỉ lệ vốn góp của từng thành viên (nếu như Ông Nguyễn Văn A và Ông Nguyễn Văn B không rút ra một tỉ lệ vốn tương đương bằng tiền hoặc bằng hiện vật)... chứ không làm thay đổi số lượng thành viên của Công ty Trách nhiệm Hữu hạn X.

Dạng biến thể thứ ba là góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất không tạo lập ra một pháp nhân mới nhưng lại không thuộc các trường hợp đã dự liệu tại trường hợp thứ hai. Trong trường hợp này, cá nhân Ông Nguyễn Văn A hoặc cá nhân Ông Nguyễn Văn B góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất nhằm thực hiện một dự án kinh doanh cụ thể. Ví dụ, Ông Nguyễn Văn A góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất cho Ông Nguyễn Văn B còn Ông Nguyễn Văn B bỏ tiền mặt nhằm xây dựng biệt thự cho thuê trong một thời gian nhất định. Lợi nhuận cũng như rủi ro của dự án sẽ được hai bên phân chia trên cơ sở tỉ lệ vốn góp. Theo nhận xét của chúng tôi đây chính là tình huống đã được dự liệu tại Khoản 3, Điều 732, Bộ luật Dân sự ngày 14/6/2005 mà theo đó bên nhận góp vốn (Ông Nguyễn Văn B) không bao giờ được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Rõ ràng, dạng biến thể thứ ba chỉ thuộc phạm vi điều chỉnh của Bộ luật Dân sự ngày 14/6/2005 và Luật Đất đai ngày 26/11/2003 trong khi dạng biến thể thứ nhất và thứ hai thuộc phạm vi điều chỉnh của cả Luật Doanh nghiệp ngày 29/11/2006. Sẽ không có nhiều vấn đề đáng bàn nếu chúng ta tách bạch hợp đồng góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất ra khỏi các dạng giao dịch khác. Tuỳ theo yêu cầu cụ thể của đương sự mà công chứng viên có thể công chứng hợp đồng góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất theo nhiều hình thức khác nhau với điều khoản, điều kiện cụ thể không giống nhau. Tuy nhiên, khi đặt hợp đồng góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất trong tương quan với các hợp đồng, giao dịch khác (ví dụ như thế chấp, thừa kế), chúng ta lại thấy rất nhiều điểm không thống nhất trong cách hiểu về bản chất, quyền và nghĩa vụ của những bên giao kết hợp đồng góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất trong các văn bản pháp lý có liên quan. Để làm sáng tỏ vấn đề này, chúng tôi xin đơn của một ví dụ như sau. Công ty Trách nhiệm Hữu hạn X được thành lập và hoạt động phù hợp với quy định tại Luật Doanh nghiệp ngày 29/11/2006 với tổng số vốn là 500.000.000 đồng. Ông Nguyễn Văn A là thành viên sáng lập của công ty với số vốn góp là 100.000.000 đồng. Sau một thời gian, vào năm 2007, do yêu cầu cơ cấu lại công ty, Ông Nguyễn Văn A rút toàn bộ số vốn bằng tiền mặt trong Công ty Trách nhiệm Hữu hạn X và thay thế số vốn đó bằng giá trị quyền sử dụng 50 m2 đất trong thời hạn là 10 năm. Như vậy, sau khi hoàn tất thủ tục đăng ký góp vốn, Ông Nguyễn Văn A vẫn sở hữu số vốn là 100.000.000 đồng, chiếm 20% tổng số vốn điều lệ của công ty. Căn cứ vào hợp đồng góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất đã được công chứng, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đăng ký góp vốn vào Công ty Trách nhiệm Hữu hạn X với thời hạn 10 năm trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên Ông Nguyễn Văn A. Do có nhu cầu sử dụng vốn kinh doanh, hội đồng thành viên Công ty Trách nhiệm Hữu hạn X, bao gồm cả Ông Nguyễn Văn A quyết định mang tài sản là quyền sử dụng diện tích 50 m2 đất nói trên đi thế chấp cho Ngân hàng C để đảm bảo cho nghĩa vụ trả nợ của công ty. Giả thiết đưa ra ở đây là Ngân hàng C, về mặt nguyên tắc chấp thuận yêu cầu vay vốn cũng như thế chấp tài sản của Công ty Trách nhiệm Hữu hạn X và Ông Nguyễn Văn A. Khi nhận được yêu cầu công chứng hợp đồng thế chấp tài sản nói trên, công chứng viên có thể đưa ra hai phương án giải quyết như sau. Phương án thứ nhất là sẽ lập một hợp đồng thế chấp hai bên trong đó Ngân hàng C là bên nhận thế chấp (hay còn gọi là Bên cho vay) và Công ty Trách nhiệm Hữu hạn X là bên thế chấp (hay còn gọi là Bên vay). Những công chứng viên giải quyết theo phương án thứ nhất cho rằng tài sản mang đi góp vốn là tài sản của bên nhận góp vốn và do đó bên nhận góp vốn (trong ví dụ này là Công ty Trách nhiệm Hữu hạn X) có quyền mang tài sản đã góp vốn nói trên đi đảm bảo cho nghĩa vụ dân sự của chính công ty hay của bất kỳ một chủ thể nào khác. Cơ sở pháp lý cho phương án giải quyết vừa nêu chính là nội dung quy định của Điều 342, Bộ luật Dân sự ngày 14/6/2005 và Khoản 4, Điều 4 và Khoản 1, Điều 29, Luật Doanh nghiệp ngày 29/11/2006. Phương án thứ hai chính là phải lập hợp đồng thế chấp ba bên trong đó Ngân hàng C vẫn là bên nhận thế chấp (hay còn gọi là Bên cho vay) và Công ty Trách nhiệm Hữu hạn X là bên có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan (hay còn gọi là Bên vay) còn bên thế chấp là Ông Nguyễn Văn A. Cơ sở pháp lý cho phương án thứ hai chính là nội dung Điều 730, Bộ luật Dân sự ngày 14/6/2005 khi quy định “Quyền của bên góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất”, trong đó có quyền “Được nhận lại quyền sử dụng đất đã góp vốn theo thoả thuận hoặc khi thời hạn góp vốn đã hết”. Căn cứ vào điều luật vừa nêu, rõ ràng hành vi góp vốn không làm thay đổi chủ sử dụng đất nên ngay cả khi đã được đem góp vốn, diện tích đất 50 m2 nói trên vẫn thuộc quyền sử dụng của Ông Nguyễn Văn A. Nói theo cách khác về bản chất Ông Nguyễn Văn A chỉ cho Công ty Trách nhiệm Hữu hạn X thuê quyền sử dụng 50 m2 đất trong vòng 10 năm mà thôi. Điểm đáng lưu ý ở đây là tiền thuê toàn bộ diện tích đất nói trên trong suốt quãng thời gian thuê sẽ được trả một lần duy nhất và bằng quyền sở hữu một phần Công ty Trách nhiệm Hữu hạn X với tỷ lệ là 20%.

Khoan hãy bàn về tính hợp pháp của từng phương án mà chúng ta tiếp tục mở ra từng tình huống có thể xảy đến theo ví dụ vừa nêu. Giả thiết ở đây là năm 2008, Ông Nguyễn Văn A chết. Theo quy định, các thừa kế của Ông Nguyễn Văn A đứng ra khai nhận thừa kế toàn bộ di sản do Ông Nguyễn Văn A để lại bao gồm cả giá trị quyền sử dụng 50 m2 đất đã góp vốn cho Công ty Trách nhiệm Hữu hạn X trong vòng 10 năm (xem Khoản 2, Điều 730, Bộ luật Dân sự ngày 14/6/2005). Với giả thiết trên rất nhiều tình huống có thể diễn ra chủ yếu xoay quanh đối tượng của văn bản khai nhận di sản thừa kế. Quan điểm thứ nhất coi đối tượng của văn bản khai nhận di sản thừa kế là quyền sử dụng chính diện tích đất 50 m2 đã đem góp vốn trong khi quan điểm thứ hai lại cho rằng đối tượng của văn bản khai nhận di sản thừa kế là toàn bộ số vốn góp của Ông Nguyễn Văn A trong Công ty Trách nhiệm Hữu hạn X mà quyền sử dụng diện tích 50 m2 đất đã chuyển hoá thành. Đến đây không khó khăn gì để chúng ta có thể phát hiện mâu thuẫn giữa hai cách quan niệm kể trên. Nếu coi đối tượng của văn bản khai nhận di sản thừa kế chính là quyền sử dụng 50 m2 đất đã được đem góp vốn trong vòng 10 năm thì rõ ràng giá trị của quyền sử dụng 50 m2 đất trên sẽ tỷ lệ thuận với thời gian góp vốn. Nói cụ thể hơn, thời gian góp vốn còn lại càng ngắn thì giá trị quyền sử dụng đất trong công ty càng thấp bất chấp kết quả kinh doanh của công ty. Còn nếu coi đối tượng của văn bản khai nhận di sản thừa kế là toàn bộ số vốn góp của Ông Nguyễn Văn A trong Công ty Trách nhiệm Hữu hạn X được chuyển hoá từ quyền sử dụng 50 m2 đất trong vòng 10 năm thì đương nhiên giá trị phần di sản của Ông Nguyễn Văn A tại công ty sẽ phụ thuộc chủ yếu vào kết quả kinh doanh của công ty tại thời điểm mở thừa kế chứ không phụ thuộc vào khoảng thời gian còn lại trong thời hạn góp vốn bằng quyền sử dụng 50 m2 đất nói trên. Quay trở lại với thí dụ vừa nêu, giả thiết thứ nhất đưa ra là tại thời điểm Ông Nguyễn Văn A chết vào năm 2008, giá trị tài sản thừa kế của Ông Nguyễn Văn A tại Công ty Trách nhiệm Hữu hạn X sẽ được tính bằng quãng thời gian còn lại của hợp đồng góp vốn bằng quyền sử dụng 50 m2 đất. Như vậy, năm 2007 Ông Nguyễn Văn A góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng 50 m2 đất trong vòng 10 năm và được bên góp vốn và bên nhận góp vốn thống nhất trị giá là 100.000.000 đồng. Tại thời điểm năm 2008 khi Ông Nguyễn Văn A chết rõ ràng theo quan điểm thứ nhất trị giá của số tài sản thuộc sở hữu của Ông Nguyễn Văn A trong Công ty Trách nhiệm Hữu hạn X vẫn là quyền sử dụng 50 m2 đất trong vòng 9 năm và tương đương với 90.000.000 đồng. Giá trị trên không thay đổi bởi bất kỳ lý do gì bất chấp kết quả kinh doanh của công ty. Trong khi đó ở giả thiết thứ hai, giá trị khối di sản thừa kế của Ông Nguyễn Văn A trong Công ty Trách nhiệm Hữu hạn X được tính căn cứ kết quả kinh doanh của công ty tại thời điểm mở thừa kế. Nói cách khác, theo giả thiết này quyền sử dụng 50 m2 đất góp vốn trong khoảng thời gian là 10 năm vào công ty đã được chuyển hoá thành một phần tài sản (nói chính xác hơn là vốn) của Công ty Trách nhiệm Hữu hạn X. Do đó, giá trị tài sản có thể tăng lên hay giảm đi tuỳ thuộc kết quả kinh doanh của Công ty Trách nhiệm Hữu hạn X tại thời điểm năm 2008. Trong trường hợp công ty kinh doanh phát đạt, giá trị di sản của Ông Nguyễn Văn A để lại tất nhiên lớn hơn rất nhiều số tiền 90.000.000 đồng mà cụ thể là nó sẽ tương đương với 20% tổng giá trị tài sản của Công ty Trách nhiệm Hữu hạn X. Không có gì phải bàn cãi nếu các thành viên Công ty Trách nhiệm Hữu hạn X đồng ý, nhất trí trả lại quyền sử dụng diện tích 50 m2 đất đã đem góp vốn cùng với một khoản tiền chênh lệch nhằm đảm bảo khối di sản của Ông Nguyễn Văn A đạt được 20% tổng số tài sản của công ty. Tuy nhiên, ở tình huống này mâu thuẫn giữa những đồng thừa kế của Ông Nguyễn Văn A và các thành viên Công ty Trách nhiệm Hữu hạn X vẫn có thể xảy ra. Đó là khi những đồng thừa kế yêu cầu rút toàn bộ phần di sản mà Ông Nguyễn Văn A để lại tại công ty bao gồm cả quyền sử dụng 50 m2 đất đã đem góp vốn trong khi Công ty Trách nhiệm Hữu hạn X vẫn đang có nhu cầu tiếp tục sử dụng diện tích đất nêu trên. Nếu coi di sản thừa kế của Ông Nguyễn Văn A là 20% tổng giá trị tài sản của Công ty Trách nhiệm Hữu hạn X thì các thành viên của công ty hoàn toàn có thể từ chối trả lại quyền sử dụng diện tích 50 m2 đất nói trên mà chỉ có nghĩa vụ thanh toán cho những đồng thừa kế của Ông Nguyễn Văn A một khoản tiền tương đương với 20% tổng giá trị tài sản của công ty là ổn thoả. Còn nếu coi di sản của Ông Nguyễn Văn A trong Công ty Trách nhiệm Hữu hạn X chỉ là quyền sử dụng 50 m2 đất trong vòng 10 năm thì rõ ràng công ty sẽ phải thanh toán phần giá trị sử dụng diện tích đất nói trên trong vòng 9 năm tương đương với 90.000.000 đồng và có quyền tiếp tục sử dụng diện tích 50 m2 đất cho đến hết thời hạn góp vốn. Trong trường hợp tại thời điểm mở thừa kế, Công ty Trách nhiệm Hữu hạn X kinh doanh thua lỗ thì tình huống có thể xảy ra lại trở nên phức tạp hơn nhiều. Lúc này, nếu coi quyền sử dụng 50 m2 đất trong vòng 10 năm đã chuyển hoá thành phần vốn góp của Ông Nguyễn Văn A trong công ty thì tại thời điểm Ông Nguyễn Văn A chết, giá trị phần vốn góp của Ông Nguyễn Văn A trong Công ty Trách nhiệm Hữu hạn X có thể thấp hơn 90.000.000 đồng, thậm chí là con số âm. Về mặt nguyên tắc, những đồng thừa kế phải thực hiện nghĩa vụ tài sản của Ông Nguyễn Văn A trong phạm vi di sản do người chết để lại hay là gánh chịu các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong giới hạn số vốn mà ông ta đã góp vào Công ty Trách nhiệm Hữu hạn X (xem Điều 637, Bộ luật Dân sự ngày 14/6/2005 và Điều 38, Luật Doanh nghiệp ngày 29/11/2006). Do đó trong tình huống giả định trên, di sản thừa kế của Ông Nguyễn Văn A tại Công ty Trách nhiệm Hữu hạn X ở thời điểm mở thừa kế có thể không tồn tại. Điều này có nghĩa những đồng thừa kế của Ông Nguyễn Văn A chỉ có thể nhận lại quyền sử dụng 50 m2 đất khi thời hạn góp vốn đã hết. Giả định trên đã được pháp luật ghi nhận tại Điều 730, Bộ luật Dân sự ngày 14/6/2005. Nếu muốn nhận lại quyền sử dụng 50 m2 đất trước khi hết hạn góp vốn, tất nhiên những đồng thừa kế của Ông Nguyễn Văn A phải nộp vào công ty một khoản tiền tương ứng với khoảng thời gian hợp đồng góp vốn còn hiệu lực. Cách xử lý vừa nêu sẽ khó được các thành viên Công ty Trách nhiệm Hữu hạn X chấp thuận nếu như 20% nghĩa vụ tài sản của công ty lớn hơn con số 90.000.000 đồng. Còn nếu Công ty Trách nhiệm Hữu hạn X được tổ chức theo mô hình công ty hợp danh và Ông Nguyễn Văn A là thành viên hợp danh thì cách xử lý đối với quyền sử dụng diện tích 50 m2 đất đem góp vốn nói trên lại được nhìn nhận theo một đường hướng khác (xem các Điều 130 và 133, 134 Luật Doanh nghiệp ngày 29/11/2006). Không còn nghi ngờ gì nữa, với những căn cứ pháp lý tại các văn bản quy phạm pháp luật khác nhau, chúng ta có nhiều cách quan niệm không giống nhau về hợp đồng góp vốn bằng (giá trị) quyền sử dụng đất cũng như hậu quả pháp lý của loại hình giao dịch trên. Tất nhiên, tuỳ thuộc mỗi cách hiểu, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên tham gia giao kết hợp đồng góp vốn bằng quyền sử dụng đất hay giá trị quyền sử dụng đất cũng có những khác biệt rất lớn.

Tóm lại, trên đây chúng tôi đã trình bày một số vướng mắc khi công chứng hợp đồng góp vốn bằng quyền sử dụng đất hay giá trị quyền sử dụng đất. Việc đưa quyền sử dụng đất, một nguồn tài nguyên vô cùng quan trọng, vào sản xuất kinh doanh là yêu cầu tất yếu của nền kinh tế nhưng điều kiện tiên quyết là chúng ta cần phải xây dựng được một hành lang pháp lý đồng bộ, thống nhất và khả thi cho vấn đề trên. Việc đưa ra những quan điểm khác nhau về loại hình góp vốn có đối tượng là quyền sử dụng đất cũng như không xác định rõ hậu quả pháp lý của hình thức giao dịch trên đã khiến cho công chứng viên bị lúng túng khi xử lý các yêu cầu công chứng có liên quan. Theo ý kiến riêng của chúng tôi nhằm giải quyết những vướng mắc kể trên, các nhà làm luật cần cân nhắc tính khả thi của hình thức góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất (góp vốn có thời hạn) hoặc giả cần phải xác định rõ quyền và nghĩa vụ của bên góp vốn cũng như bên nhận góp vốn đối với hình thức góp vốn này./.

Thứ Năm, 16 tháng 6, 2011

SỰ THẬT VỀ TRẬN HẢI CHIẾN HOÀNG SA

Với mục đích ban đầu là lập một Blog để đưa đến các bạn những thông tin, bài viết, quan điểm pháp lý và tạo ra một diễn đàn nhằm trao đổi, học hỏi kinh nghiệm pháp luật. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây vấn đề biển Đông đang nóng hơn bao giờ hết, đe dọa nghiêm trọng sự ổn định, phát triển của nước ta. Khi đất nước "có biến" thì pháp luật sẽ trở thành thứ yếu và cuộc sống người dân sẽ bị đe dọa nghiêm trọng. Do vậy, Tôi đã đưa vào Blog của mình những bài viết về Hoàng Sa, Trường Sa mà với vốn kiến thức lịch sử, chính trị khiêm tốn của mình, Tôi cho rằng sẽ đóng góp một phần nào đó vào sự ổn định, phát triển của đất nước hiện nay.

Hiện nay, có rất nhiều thông tin khác nhau về vấn đề Trường Sa và Hoàng Sa. Đa phần những thông tin đó là mâu thuẫn với nhau và người đọc không khỏi rơi vào mê cung mà không biết đâu là sự thật. Qua tìm hiểu trên mạng, Tôi có đọc được một bài viết của một sỹ quan hải quân Việt Nam Cộng hòa nói về trận Hải chiến Hoàng Sa năm 1974 và minh chứng lịch sử này giúp Tôi có cái nhìn nhất định về vấn đề Hoàng Sa, Trường Sa hiện nay và các bình luận trên nhiều tờ báo trong đó có bình luận "cận thận kẻo mắc mưu Trung Quốc". Sau khi đọc xong bài viết, Tôi tự hỏi giả sử, chúng ta cũng đáp trả bằng quân sự những hành động gây hấn gần đây thì rất có thể những phần lãnh thổ trên biển còn lại do chúng ta đang nắm giữ sẽ lại rơi vào tay Trung Quốc như một nửa quần đảo Hoàng Sa của chúng ta năm 1974.

Sau khi đọc qua bài này, mọi người có thể có những ý kiến riêng. Tuy nhiên, việc đăng bài này của tôi là vì một nước Việt Nam độc lập, tự chủ, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và phát triển, hoàn toàn không mang bất kỳ quan điểm chính trị nào cũng như không chịu trách nhiệm vì những quan điểm chính trị có thể có (do lập luận của một số người) trong bài viết.

Luật Vĩnh phúc xin trân trọng giới thiệu!

SỰ THẬT VỀ TRẬN HẢI CHIẾN HOÀNG SA 1974

Lê Văn Thự

(Trích báo Thời Luận – Los Angeles – 3/2004)


Từ ngày trận hải chiến Hoàng Sa xẩy ra đến nay, tôi vẫn giữ im lặng, không viết ra những điều mắt thấy tai nghe những gì xẩy ra trong trận chiến, vì nghĩ rằng trận chiến Hoàng Sa là một thất bại vì đã không giữ được đảo Hoàng Sa. So với những chiến tích lẫy lừng của tiền nhân trong lịch sử thì chúng tôi đã không làm nên được tích sự gì, vì vậy tôi cảm thấy hổ thẹn khi phải viết ra.

Nhưng nay đã có nhiều người viết về trận Hoàng Sa, trong đó có Hải quân Đại tá Hà Văn Ngạc là người chỉ huy trận chiến, và Trung úy Hải quân Đào Dân thuộc HQ-16. Nay lại có thêm Hải quân Trung tá Vũ Hữu San, hạm trưởng HQ-4 viết một cuốn sách nói về trận chiến Hoàng Sa. Trong các bài viết cũng như cuốn sách đó, mỗi người nói một cách, không ai giống ai. Nếu ai chỉ đọc một bài thôi thì có thể tin đó là thật, nhưng nếu người đọc tinh ý thì vẫn có thể tìm thấy một vài chi tiết chứng tỏ người viết thiếu thành thật hay nói vu vơ phô trương nhiều hơn những gì cần nói. Còn nếu đọc hết tất cả các bài viết thì sẽ thấy người nói hươu kẻ nói vượn, chẳng biết tin ai. Người đọc sẽ đánh giá thấp Hải quân Việt Nam cộng hòa và sẽ thắc mắc không biết trận chiến Hoàng Sa thật sự như thế nào.

Chính vì lý do này mà tôi phải lên tiếng. Tôi biết trong Hải Quân có một số người biết sự thật, nhưng ai nói sai họ vẫn mặc kệ, miễn người viết đề cao Hải Quân, còn nói thật thì họ cho là làm mất mặt Hải Quân. Vì vậy khi viết bài này, tôi biết trước là sẽ có nhiều người bất mãn vì bài viết của tôi, không những bất mãn mà tệ hơn, còn lên án tôi là kẻ bêu xấu Hải Quân, nhưng tôi vẫn phải viết để nói lên sự thật và nói thay cho những người đã chết trong trận Hoàng Sa.

Tôi cũng xin độc giả hiểu cho rằng trong các quân binh chủng, hàng tướng tá, úy, hạ sĩ quan hay trong bất cứ tập thể nào cũng có người tốt kẻ xấu, người có trình độ cao kẻ trình độ thấp, do đó xin qúi vị không nên vơ đũa cả nắm. Hơn nữa bây giờ ra hải ngoại rồi, chúng ta phải nhìn nhận sự thật Việt Nam cộng hòa sụp đổ chính vì cấp lãnh đạo và những người có trách nhiệm chứ đừng đổ lỗi cho đồng minh phản bội để chối tội.

Trước khi vào bài, tôi xin nêu lên vài ý kiến về bài viết của Trung Úy Đào Dân vì ông ta cùng ở trên HQ-16 với tôi. Những gì xẩy ra trên HQ-16, Trung úy Dân viết có thể đúng nhưng chưa chắc đã thấy hết mọi chuyện xẩy ra trên HQ-16 vì ông chỉ ở một vị trí nào đó trên chiến hạm chứ không thể có mặt ở trên khắp mọi nơi, ngoài ra ông còn phải lo làm phận sự của ông chứ không thể ngồi không mà quan sát trận chiến.

Những gì ông viết về HQ-4, HQ-5 và HQ-10 là hoàn toàn không đúng sự thật. Chính tôi là người chỉ huy HQ-16 mà cũng không biết những hoạt động của HQ 4, HQ-5 làm sao ông Dân biết được ?

Tôi nghĩ là ông Dân muốn viết về trận chiến Hoàng Sa mà ông có tham dự, nhưng khi muốn viết cho đầy đủ, ông phải nói đến các chiến hạm khác mà ông không biết hoạt động của các chiến hạm này nên phải tưởng tượng ra hoặc dựa vào phần nào bài viết của Đại tá Hà Văn Ngạc mà bài viết của Đại tá Ngạc thì hoàn toàn sai sự thật (tôi sẽ đề cập sau), điều này chắc chắn ông Dân cũng biết nên ông dễ dàng phóng bút theo mà không dám nói sự thật.

Ông Dân nói Trung cộng đặt đài quan sát trên đảo, xây dựng doanh trại, và toán người nhái đổ bộ trong ngày cuộc chiến xẩy ra báo cáo là có cả một tiểu đoàn quân Trung cộng trú đóng, là không đúng sự thật. Chỉ có một dẫy nhà gỗ đang xây cất dở dang. Còn người nhái không đổ bộ trong ngày cuộc chiến xẩy ra và cũng chưa bao giờ lên được đảo.

Ông Dân viết :Ạ "Khi chúng tôi được lệnh tiến về phía đảo, HQ-10 hình như có vẻ chần chừ vì khoảng cách giữa chúng tôi ngày càng xa và Hạm trưởng HQ 16 đã nhiều lần thúc dục HQ-10 phải chạy sát nhau hơn". Đây là chuyện không có. Sự thực, trong trận chiến HQ-16 tiến một hướng, HQ-10 tiến hướng khác để vào lòng chảo quần đảo Hoàng Sa chứ không tiến cùng một hướng. Từ đầu đến cuối trận chiến, HQ-10 đã làm đúng những gì tôi nói với Hạm trưởng HQ-10 tối hôm 18 tháng 1, 1974 trước ngày khai chiến 119 tháng 1, 1974.

Ông Dân nói việc các chiến hạm hải hành tập đội để phô trương lực lượng là hoàn toàn không có. Đã đi đánh trận mà còn phô trương lực lượng thì không còn gì ngớ ngẩn bằng.

Ông Dân nói HQ-4 dùng mũi tàu để ủi tàu Trung cộng ra xa đảo Hoàng Sa là chuyện không đúng sự thật và cũng không thể nào làm như vậy được. Cũng như phóng đồ kế hoạch điều quân của ông Dân cho thấy HQ-4 và HQ-5 tiến vào lòng chảo để tác chiến cũng là không thật nữa. Hướng tiến quân của HQ-4, HQ-5 vào lòng chảo chính là hướng tiến quân của HQ-10. Ông Dân đưa thêm HQ-4, HQ 5 vào cho đủ bộ thành trật lất. Sự thật HQ-4 và HQ-5 chỉ ở vòng ngoài chứ không tham dự trận chiến trong lòng chảo.

Nếu HQ-4, HQ-5 có mặt trong lòng chảo thì khi HQ-16 và HQ-10 bị trúng đạn thì HQ-4 và HQ-5 làm gì thì không thấy ông Dân nói đến !

Trên đây là các điểm tôi muốn đính chính về bài viết của Trung úy Đào Dân.

Và sau đây là những gì xẩy ra trong trận chiến mà tôi đã chứng kiến.

Trước khi nói đến trận đánh, tôi xin sơ lược về quần đảo Hoàng Sa.



Quần đảo Hoàng Sa (gọi chung là Paracels) cách bờ biển Đà Nẵng 180 hải lý về phía đông. Như qúi vị thấy trong bản đồ, quần đảo Hoàng Sa gồm một số đảo ghi trong bản đồ quây quần nhau làm thành một lòng chảo, mà muốn vào bên trong lòng chảo đó phải theo hai lộ trình mà chúng tôi thường gọi là cái "pass". Một cái ở giữa đảo Hoàng Sa và đảo Cam Tuyền. Cái kia ở giữa bãi đá ngầm Antelope và đảo Quang Hòa.

Bản đồ này tỷ lệ xích quá nhỏ nên các đảo chỉ bằng lóng tay hay chỉ là những dấu chấm. Quần đảo Hoàng Sa không chỉ có bấy nhiêu đảo trong bản đồ mà còn một số đảo khác nữa nằm rải rác ở phía đông bắc. Những đảo trong bản đồ là những đảo tận cùng phía nam của quần đảo Hoàng Sa. Nhìn vào bản đồ, qúi vị thấy các đảo rời nhau, có khoảng trống ở giữa, nhưng tầu bè không chạy qua được vì đá ngầm và san hô ở dưới mặt nước, chỉ ra vào lòng chảo bằng hai cái "pass" tôi nói ở trên.

Quần đảo Hoàng Sa có đảo lài, có đảo cao nhưng cũng chỉ cao hơn mặt biển chừng vài chục thước. Các đảo phần nhiều trơ trụi, hiếm có cây cao, toàn đá lởm chởm, chỗ cao chỗ thấp, ít có nơi bằng phẳng. Gần bờ thì có đá ngầm, san hô. Hết đá ngầm, san hô thì biển rất sâu. Đáy biển cũng có đá nên neo tầu không an toàn. Quần đảo Hoàng Sa cũng như Trường Sa không thể lập căn cứ hải quân được vì không có chỗ ẩn núp cho tàu bè, chỉ có thể lập căn cứ trên đảo mà thôi.

Tất cả các đảo đều không có nước ngọt, trừ đảo Hoàng Sa mà chúng tôi thường gọi là "đảo khí tượng" vì có đài khí tượng do người Pháp thiết lập và sau này luôn luôn có nhân viên khí tượng Việt Nam làm việc cho đến ngày trận chiến Hoàng Sa xẩy ra. Người Pháp xây một hồ chứa nước bên trong nhà, có các máng xối hứng nước mưa chuyền vào bên trong hồ chứa để dùng cho cả năm.

Trên đảo Hoàng Sa mấy năm đầu tiên có một Trung đội Thủy Quân Lục Chiến trấn giữ. Về sau vì nhu cầu chiến trận, Thủy Quân Lục Chiến phải rời đảo và được thay thế bởi Địa Phương Quân của tiểu khu Quảng Nam. Họ phải ở trên đảo Hoàng Sa vì chỉ đảo này mới có nước ngọt. Thủy Quân Lục chiến hay Địa Phương quân đều được trang bị xuồng cao su để di chuyển quanh các đảo mà kiểm soát.

Sau khi biết tổng quát vị trí các đảo, qúi độc giả có thể theo dõi diễn tiến trận chiến Hoàng Sa sau đây.

Tôi cũng xin thưa trước là những gì xẩy ra tôi không nhớ chính xác giờ giấc, chỉ phòng chừng. Nhưng những sự kiện thì xác thực. Ngày giờ và sự kiện xẩy ra đều có ghi trong "Nhật ký hải hành" và "Nhật ký chiến hạm" nhưng nay không có để tham khảo.

Ngày 15 tháng 1, 1974 tàu tôi - HQ-16 - được lệnh ra công tác đảo Hoàng Sa, chở theo một cố vấn Mỹ và một Thiếu tá Bộ binh thuộc Quân đoàn I (mà nay tôi không còn nhớ tên).

Tàu khởi hành tối ngày 15 tháng 1, 1974 và đến Hoàng Sa sáng ngày 16 tháng 1, 1974. Khi đến nơi, Địa phương quân trên đảo thấy tàu đã lái xuồng ra đón viên Thiếu tá Bộ binh lên đảo. Trong khi chờ đợi để đưa Thiếu tá Bộ binh về lại Đà Nẵng, tôi vận chuyển tầu rời đảo Hoàng Sa ra biển, thả trôi tàu gần đảo Quang Hoà. Tôi lấy ống nhòm nhìn lên các đảo chung quanh để ngắm nhìn phong cảnh và tiêu khiển thì giờ.

Khi nhìn lên đảo Quang Hoà thì thấy có một dẫy nhà sườn gỗ còn đang xây cất dở dang, chỉ có sàn nhà, chưa có mái. Tôi thấy lạ, liền gọi máy về Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải (BTL/HQ/VIZH) hỏi thì nơi đây hỏi lại tôi là có biết người nào trên đó không ? Tôi trả lời chỉ thấy bốn, năm người di chuyển tới lui nơi dẫy nhà đang xây cất chứ không thể biết là ai. Họ ăn mặc thường dân, có người ở trần, nhưng có nhà xây cất thì chắc là người ngoại quốc mà không ai khác hơn là Trung cộng, vì cách đảo Quang Hoà chừng 20 hải lý về phía đông bắc có căn cứ của Trung cộng, cũng nằm trong quần đảo Hoàng Sa.

HQ-16 vẫn thả trôi tàu để chờ Thiếu tá Bộ Binh và chờ lệnh từ Bộ Tư Lệnh Hải quân Vùng 1 Duyên hải.

• Trưa ngày 16 tháng 1, 1974 : Một chiến hạm Trung cộng xuất hiện trong vùng.

• Tối ngày 17 tháng 1, 1974 : Bộ Tư lệnh Hải quân gởi ra một toán người nhái do HQ-4 chở ra. Toán người nhái này rời HQ-4 bằng xuồng cao su để lên HQ 16.

• Sáng ngày 18 tháng 1, 1974 : HQ-5 và HQ-10 có mặt ở khu vực Hoàng Sa. Đại tá Hải quân Hà Văn Ngạc (khoá 5) ở trên HQ-5 là người chỉ huy cuộc chiến.



HQ-5 do Trung tá Phạm Trọng Quỳnh (khoá 11) chỉ huy.

HQ-16 do tôi (Trung tá Lê Văn Thự) (khoá 10) chỉ huy.

HQ-4 do Trung tá Vũ Hữu San (khoá 11) chỉ huy.

HQ-10 do Thiếu tá Ngụy Văn Thà (khoá 12) chỉ huy.

Khoảng 10 giờ sáng ngày 18 tháng 1, 1974 Đại tá Hà Văn Ngạc ra lệnh cho tôi đưa viên cố vấn Mỹ lên đảo Hoàng Sa sau đó cho toán người nhái đổ bộ lên đảo Quang Hoà và một toán của HQ-16 lên giữ đảo Vĩnh Lạc.

Sau khi đưa viên cố vấn Mỹ lên đảo Hoàng Sa, tôi vận chuyển HQ-16 bên trong lòng chảo để đến gần đảo Quang Hòa đổ bộ toán người nhái lên đảo thì một tàu Trung cộng xuất hiện, cản trước mũi, không cho tàu tôi tiến gần đến đảo (xin xem hình 1).

Tôi phải ngưng máy, vận chuyển để tránh đụng tầu. Nhưng cả hai tàu cũng cọ vào nhau làm dẹp một số trụ căng dây an toàn chung quanh tàu Trung cộng và làm rác bè nổi của tàu Trung cộng. Nhờ xáp lại gần, tôi thấy tàu Trung cộng số hiệu 271, dài chừng 70 mét, có súng tương đương với súng 76.2 ly, 40 ly, 20 ly và đại liên 12.7 của tàu tôi. Tàu Trung cộng nhỏ hơn tàu tôi nhưng vận chuyển nhanh nhẹn hơn.

Tôi báo cáo với Đại tá Ngạc những gì xẩy ra. Sau đó tôi lái tàu ra khỏi lòng chảo và đổ bộ toán người nhái vào mặt ngoài biển (mặt nam) của đảo Quang Hoà và chiều ngày 18 tháng 1, 1974.

HQ-16 chỉ ở cách xa bờ một, hai hải lý rồi người nhái thả xuồng cao su có trang bị máy mà chạy vào bờ chứ HQ-16 không thể vào sát bờ được vì đá ngầm và san hô. Toán người nhái rời tàu chừng non một tiếng thì gọi máy báo cáo là ở trong bờ bắn ra. Tôi hỏi người liên lạc máy là có thấy người ở trên bờ không và các anh đã lên được bờ chưa ? Họ trả lời là đang lội nước ngang ống chân, còn chừng vài chục thước nữa mới tới bờ. Họ cũng cho biết là không thấy người trên bờ.

Vài phút sau thì nghe báo cáo là một thiếu úy người nhái bị bắn chết. Họ xin rút lui vì không thể vào bờ an toàn được. Tôi báo cáo với Đại tá Ngạc và xin cho người nhái rút lui. Toán người nhái đã trở về lại HQ-16.

Chiều ngày 18 tháng 1, 1974, khoảng 6 giờ, Đại tá Ngạc gọi máy cho tôi và ra lệnh cho tôi chỉ huy HQ-10, bằng mọi giá phải đổ bộ cho được toán người nhái lên đảo Quang Hoà. Sau khi Đại tá Ngạc ra lệnh này xong, thì từ đó về sau tôi không còn nghe lệnh lạc gì thêm từ Đại tá Ngạc nữa.

Đến tối ngày 18 tháng 1, 1974 máy liên lạc âm thoại giai tần đơn bị Trung cộng phá rối tần số, không liên lạc được. Tôi không thể gọi Đại tá Ngạc, HQ-4 hay Bộ Tư lệnh Hải quân Vùng I Duyên Hải. Tôi chỉ liên lạc được với HQ-10 bằng máy PRC-45 là loại máy truyền tin xách tay, chỉ liên lạc được trong vòng 10 hải lý.

Sau khi nhận lệnh, tôi nghĩ chỉ còn cách đổ bộ toán người nhái vào ban đêm mới may ra lên được đảo, nhưng chưa chắc toán người nhái đã vào trót lọt được vì có thể tàu Trung cộng theo dõi và liên lạc chỉ điểm cho người của họ trên đảo canh chừng để bắn khi người nhái vào bờ. Ngoài ra thức ăn, nước uống không có, làm sao toán người nhái có thể hoạt động lâu hơn một ngày được, và ít nhất cũng phải có một tiểu đội hay trung đội Thủy Quân Lục Chiến đổ bộ gần bờ yểm trợ cho toán người nhái khi họ rút lui nếu bị phát hiện hay khi gặp lực lượng địch mạnh hơn. Vì thế, muốn thi hành lệnh của Đại tá Ngạc, tôi nghĩ chỉ còn cách là phải tiêu diệt tàu Trung cộng trước rồi mới tính chuyện đổ bộ người nhái lên đảo sau.

Lúc này phía Trung cộng xuất hiện thêm hai chiếc tàu nữa cùng loại với chiếc đã có trước.

Tôi gọi Thiếu tá Thà HQ-10 và nói ý định của tôi : Đêm nay HQ-16 và HQ-10 ra thật xa đảo, làm tối chiến hạm (không cho ánh sáng lọt ra ngoài) để tàu Trung cộng không biết chúng tôi ở đâu. Sáng mai (19 tháng 1, 1974) sẽ tiến vào lòng chảo. HQ-16 vào cái "pass" gần đảo Hoàng Sa, HQ-10 vào cái "pass" gần đảo Quang Hòa (xin xem hình 2).

Tôi cũng nói với Thiếu tá Thà là anh cũng như tôi, phải cố gắng hết sức mình. Nếu một trong hai đứa mà loạng quạng, chỉ còn lại một, thì bọn chúng (ba chiếc tàu Trung cộng) xúm lại, mình không thể nào chống nổi.

Đêm hôm đó (18 tháng 1, 1974) khoảng nửa đêm, tôi tập họp thủy thủ đoàn HQ-16 để thông báo ngày mai sẽ tiến vào đánh tàu Trung cộng. Tôi cũng nói với Thủy thủ đoàn là tất cả mọi người phải can đảm, cố gắng hết sức mình, ai làm phần việc của mình cũng phải nhanh nhẹn, chính xác mới mong thắng và sống còn. Nhất là các ổ súng và toán phòng tai phải lo chuẩn bị trước, xem xét lại súng ống, đạn dược phải mang từ hầm đạn lên để sẵn ở các ụ súng. Ống nước cứu hỏa phải trải sẵn ra. Máy bôm nước phải sẵn sàng.

Sáng ngày 19 tháng 1, 1974, HQ-16 và HQ-10 tiến vào lòng chảo như dự định. Tôi gọi máy cho Thiếu tá Thà và nói là chừng nào thấy tôi khai hỏa là phải khai hỏa theo liền.

Khi HQ-16 và HQ-10 vừa qua khỏi hai cái "pass" và vừa tầm súng, tôi quay ngang tàu HQ-16 đưa phía hữu hạm của HQ-16 hướng về ba tàu Trung cộng. Mục đích của tôi là để tận dụng tất cả súng từ mũi ra sau lái (xin xem hình 2). Nếu hướng mũi tàu về phía tầu Trung cộng thì chỉ sử dụng được hỏa lực ở phía trước mũi thôi. Với lợi thế sử dụng tối đa hỏa lực nhưng cũng có cái bất lợi là hứng đạn của địch nhiều hơn. Nhưng vì tôi đánh phủ đầu tàu Trung cộng nên phải sử dụng tối đa hỏa lực. So với tàu Trung cộng, tàu tôi có đủ loại súng tàu Trung cộng có, ngoài ra còn có thêm khẩu 127 ly mà tàu Trung cộng không có. HQ-10 chỉ có hỏa lực ngang bằng tàu Trung cộng.

Khi đang tiến vào lòng chảo, tôi đã mừng thầm khi thấy ba tàu Trung cộng đều ở trong lòng chảo, tức là những mục tiêu tốt cho HQ-16 và HQ-10 tác xạ. Nếu chúng ở rải rác, chiếc trong chiếc ngoài lòng chảo thì tôi cũng chưa biết tính sao vì tàu Trung cộng tuy nhỏ nhưng linh động hơn, nếu chúng ra ngoài biển thì khó bắn trúng hơn vì nó nhỏ và chạy nhanh, còn tàu tôi lại là mục tiêu tốt cho tàu Trung cộng vì to con nhưng nặng nề, chậm chạp nên dễ lãnh đạn hơn. Nhưng nay thì cả ba tàu địch bị vây trong lòng chảo vì hai cái "pass" đã bị HQ-16 và HQ-10 chặn rồi.



Khi đã ở đúng vị trí và vị thế dự định (xin xem hình 2), HQ-16 cách HQ-10 chừng một hải lý, và hai tầu HQ-16 và HQ-10 cách ba tàu Trung cộng từ 3 đến 4 hải lý, tôi ra lệnh lần chót : Các ổ súng phải luôn luôn theo dõi mục tiêu, mục tiêu nào thuận lợi thì bắn mục tiêu đó. Sau khi hỏi tất cả các ổ súng đã sẵn sàng chưa, tôi ra lệnh khai hỏa.

HQ-16 và HQ-10 đứng yên một chỗ (có muốn di động cũng không được vì chật hẹp) còn ba tàu Trung cộng di chuyển loanh quanh sát vòng cung lòng chảo gần đảo Duy Mộng và bắn trả chúng tôi.

Tôi hy vọng trong 5, 10 phút là triệt hạ được tàu Trung cộng vì khai hỏa trước và xử dụng tối đa hỏa lực trong khi tàu Trung cộng bị tấn công bất ngờ vì ngày hôm trước, tàu tôi bị họ chặn, tôi bỏ đi mà không có gì xẩy ra nên họ không ngờ rằng tôi sẽ tấn công họ.

Mười phút trôi qua mà chưa thấy tàu Trung cộng hề hấn gì, tôi bắt đầu sốt ruột, trong khi đó tôi nghe tiếng lách tách, lép bép trên trời như tiếng pháo bông, giữa tàu tôi và HQ-10 và về phía HQ-10 nhiều hơn. Tôi nghĩ chắc là đạn thời chỉnh tức là đạn tự động nổ mà không cần chạm mục tiêu. Trận chiến vẫn tiếp tục. Chừng khoảng phút thứ 20 hay 30, tôi thấy một tàu Trung cộng bốc khói, một tàu khác có lẽ bị trúng đạn làm hư hệ thống tay lái nên tàu cứ xoay quanh như gà trống chạy lòng vòng trước khi đạp mái.

Tiếp đến HQ-10 báo cáo Hạm trưởng bị thương. Tôi ra lệnh Hạm phó lên thay quyền chỉ huy, đồng thời đặt ống nhòm nhìn sang HQ-10 tôi thấy một ngọn lửa nhỏ cháy ở đài chỉ huy có thể dập tắt được bằng bình CO2 mà sao không ai làm. Quan sát phía sau lái HQ-10 tôi thấy 4, 5 cái đầu nhấp nhô trên mặt biển. Tôi không biết chuyện gì xẩy ra trên HQ-10 vì không nghe báo cáo gì thêm. Tôi đoán chừng vì Hạm trưởng bị thương nặng nên HQ-10 như rắn mất đầu. Một số nhỏ nhát gan sợ tàu cháy hay trúng đạn nổ nên đã nhẩy xuống biển. Nhưng HQ-10 vẫn nổi bình thường, thăng bằng, không nghiêng một chút nào cả.

Sau đó hầm máy hữu HQ-16 báo cáo trúng đạn ở lườn tàu dưới mặt nước. Nước tràn vào tàu. Trung sĩ điện khí Xuân bị thương. Nhân viên cứu hỏa tìm cách bít lỗ thủng. Chừng vài phúa sau, tàu bắt đầu nghiêng. Hầm máy báo cáo lỗ thủng bít không được vì nước vào quá mạnh, chỗ thủng nằm trong kẹt không có chỗ cho nhân viên cứu hỏa xử dụng đà chống để chặn tấm bố và tấm gỗ bít lỗ thủng. Nước ngập đến đầu gối. Tôi ra lệnh nếu không bít được lỗ thủng thì đóng nắp hầm máy lại đừng cho nước tràn ra khỏi hầm máy. (Tôi nhớ hầm máy hữu trúng đạn mà trong bài viết của ông Dân thì lại viết là hầm máy tả !).

Tàu chỉ còn một máy tả và một máy điện, phòng vô tuyến liên lạc truyền tin b gián đoạn vì mất điện. Nhận thấy tình thế không thể tiếp tục chiến đấu được nữa, tôi vận chuyển tầu quay trở ra theo cái "pass" để rời lòng chảo.

Tàu mỗi lúc một nghiêng thêm (trên 10o) và chỉ còn một máy nên vận chuyển rất khó khăn. Hầm máy hữu báo cáo nhân viên phải rời hầm máy vì tàu sắp chìm.

Thấy độ nghiêng của tàu đến mức gần hết độ an toàn, có thể tàu sẽ lật nên tôi ra lệnh : Toàn thể nhân viên vào nhiệm sở đào thoát vì sợ họ không còn thì giờ đào thoát kịp. Ra lệnh xong, tôi nắm lấy tay lái tiếp tục lái thay cho nhân viên ra nhiệm sở.

Trong khi tôi đang lái thì Đại úy Hiệp, cơ khí trưởng, chạy lên đài chỉ huy, nói với tôi : "Vì sao Hạm trưởng cho nhiệm sở đào thoát ? Tôi đang ráng làm cân bằng tàu". Tôi nói là tàu mỗi lúc một nghiêng thêm, không biết sẽ lật chìm lúc nào nên phải chuẩn bị đào thoát.

Lúc này tàu nghiêng đã đến độ bão hòa (không nghiêng thêm nữa) vì nước đã vào đầy hầm máy. Tôi cho giải tán nhiệm sở đào thoát và vào lại nhiệm sở tác chiến. Lúc này ở đài chỉ huy có Trung úy Đoàn Viết Ất, tôi nói với Trung út Ất : "Tàu nghiêng như thế này, khó mà lái ra biển an toàn được, chắc tôi phải ủi tàu vào đảo khí tượng (đảo Hoàng Sa) để cố thủ và chờ HQ-4, HQ-5 tiếp viện".

Trung úy Ất nói với tôi : "Xin Hạm trưởng đừng ủi tàu vào đảo khí tượng. Mình sẽ bị Trung cộng bắt làm tù binh. Làm tù binh Trung cộng thì kể như chết rục xương trong tù, không còn thấy cha mẹ, vợ con, quê hương xứ sở. Xim Hạm trưởng cứ lái ra biển. Tàu có chìm thì đào thoát vẫn còn cơ may sống sót. Nếu chết thì chết trên biển vẫn sướng hơn".

Bây giờ viết lại câu nói này của Trung úy Ất, tôi vẫn còn xúc động đến chảy nước mắt. Nghe Trung úy Ất nói, tôi suy nghĩ thêm : Nếu tôi cứ ủi vào đảo khí tượng thì cũng không thể nào ủi sát vào bờ được vì gần bờ đá ngầm rất nhiều. Nếu ủi, tàu sẽ mắc cạn, lườn tàu sẽ bị đá ngầm rạch nát, nước sẽ vào thêm, tàu sẽ hoàn toàn tê liệt mà thủy thủ đoàn cũng không thể nào lên đảo được. Do đó tôi tiếp tục lái tàu ra khỏi "pass", đồng thời ra lệnh nhân viên hướng súng về đằng sau và về phía quần đảo Hoàng Sa canh chừng tàu Trung cộng truy kích theo.

Khi rời Hoàng Sa, tôi hết sức ân hận đã bỏ lại trên đảo một toán nhân viên 8 người do Trung úy Liêm chỉ huy khi có lệnh đưa nhân viên lên giữ đảo. Trung úy Liêm và toán nhân viên sau đó đã mạo hiểm vượt biển bằng bè vì không muốn Trung cộng bắt làm tù binh. Sau hơn mười ngày lênh đênh trên biển, bè trôi về tận ngoài khơi Qui Nhơn, được ngư phủ cứu và được đưa vào bệnh viện Qui Nhơn cấp cứu. Họ vượt biển mà không chuẩn bị thức ăn nước uống nên Hạ sĩ Quản kho Nguyễn Văn Duyên đã chết vì kiệt sức khi đưa vào Qui Nhơn.

Ra khỏi "pass", tôi hướng tàu về Đà Nẵng, lúc này khoảng 5 - 6 giờ chiều ngày 19 tháng 1, 1974. Tàu chỉ còn một máy và nghiêng nên chạy chậm. Khi trời bắt đầu tối, tàu cách Hoàng Sa chừng 15 hải lý. Lúc này tôi mới thở ra nhẹ nhõm vì chắc tàu Trung cộng cũng bị thương tích cả người lẫn tàu nên không truy kích tàu tôi.

Bây giờ mối lo khác lại đến với tôi là tàu có thể lật chìm bất cứ lúc nào nếu có sóng chếch xuôi rất dễ làm tàu lật. Tôi cho nhân viên chuẩn bị các bè nổi, xem xét lại cách xử dụng để khi hữu sự thì làm cho nhanh chứ khi tàu lật thì không có thì giờ mà mò mẫm.

Lúc này hệ thống truyền tin vừa được sửa chữa xong. Nhân viên vô tuyến báo cáo tình trạng chiến hạm về Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải nhưng không thấy HQ-5, HQ-4 lên tiếng.

Một tin làm bàng hoàng mọi người trên chiến hạm là Trung sĩ Điện khí Xuân trút hơi thở cuối cùng vì vết thương quá nặng mà không được săn sóc đúng mức.

Đại úy Hiệp mang họa đồ chiến hạm các khoang hầm trên tàu lên đài chỉ huy và cho tôi biết đã làm cân bằng tàu bằng cách bơm nước và dầu từ hầm này sang hầm khác và dồn về phía tả hạm, nhưng tàu cũng không bớt nghiêng bao nhiêu. Đại úy Hiệp nói : "Bây giờ chỉ còn cách bơm xả nước ngọt và dầu ra biển may ra mới làm tàu bớt nghiêng". Xả nước ngọt và dầu ra biển thì tôi rất ngại mà cũng không biết chắc là khi xả xong thì tình trạng có khá hơn không hay lại tệ hơn vì phải biết trọng tâm con tàu trước và sau khi xả nằm ở đâu rồi mới dám làm.

Học môn lý thuyết thuyền bè trong trường Hải quân nhưng ra trường lâu ngày và gặp lúc hữu sự, lại không còn nhớ cách tính trọng tâm con tàu nên tôi không dám bảo Đại úy Hiệp làm và giữ nguyên tình trạng như vậy mà chạy về Đà Nẵng. Cũng may nhờ biển rất êm nên không có gì xẩy ra.

Sáng 20 tháng 1, 1974 khoảng 7 - 8 giờ, tàu vào vịnh Tiên Sa Đà Nẵng nhưng tôi không vận chuyển cặp cầu được. Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải phải xin tàu dòng từ Ty Thương Cảng Đà Nẵng, kẹp ngang hông HQ-16 mà cặp cầu quân cảng Đà Nẵng.

Cặp cầu xong, Thủy xưởng Đà Nẵng sang bơm dầu, nước ngọt ra, làm nhẹ tàu cho tàu nổi lên rồi tìm cách bít tạm lỗ thủng dưới nước (do người nhái lặn xuống nước mà bít, tôi nhớ như vậy không biết có đúng không ?). Sau đó bơm nước ngập hầm máy ra và hàn lại lỗ thủng ở hầm máy.

Ngày hôm sau, Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải xin toán tháo gỡ đạn dược từ Quân Đoàn I sang để tháo gỡ viên đạn còn nằm lại trên tàu. Viên đạn được bắn vòng cầu, rơi xuống nước gần HQ-16, do tốc độ của viên đạn nên khi xuống nước gặp sức cản của nước, viên đạn không đi thẳng xuống nước mà bị lệch hướng rồi đâm vào lườn tầu HQ-16 dưới mặt nước. Viên đạn vẫn còn tốc độ di chuyển, xướt qua một góc máy điện, xuyên đứt cánh tay Trung sĩ Điện khí Xuân kế đó rồi chui vào kho điện khí ở một góc hầm máy và nằm ở đó. May là viên đạn không nổ, chứ nổ thì HQ-16 có thể chìm tại chỗ !

Lấy được viên đạn ra, toán tháo gỡ đạn dược ngạc nhiên cho biết là viên đạn "made in USA" và cỡ 127 ly. Sau này truy ra mới biết là đạn do HQ-5 bắn.

Sau khi sửa chữa xong, sơn phết lại, làm sạch sẽ, chiến hạm HQ-16 được lệnh về Sài Gòn làm lễ tiếp đón chiến hạm trở về từ Hoàng Sa. Phần thượng tầng kiến trúc của chiến hạm bị lỗ chỗ các lỗ thủng do đạn 40 ly và 20 ly bắn vào vẫn để y nguyên, mục đích cho dân chúng Sài Gòn ai tò mò muốn xem chiến hạm dự trận Hoàng Sa về ra sao, khi lên tàu xem sẽ thấy được dấu tích còn để lại trên tàu. Tàu cặp cầu B ở bến Bạch Đằng.

Trong buổi lễ tiếp đón, tôi cùng 4 - 5 nhân viên được Tư lệnh Hải quân gắn huy chương. Sau buổi lễ dân Sài gòn được lên xem tàu. Và phóng viên BBC là ông Tôn Thất Kỳ phỏng vấn tôi. Ông hỏi tôi có thấy máy bay phản lực Trung cộng dự chiến trong trận Hoàng Sa không ? Tôi trả lời là tôi không thấy.

Ngày hôm sau, Khối Chiến Tranh Chính trị Bộ Tư Lệnh Hải Quân (lúc đó Đại tá Trần Văn Triết làm Trưởng khối thì phải), phái một thiếu úy hay trung úy (mà tôi không nhớ tên hay cấp bậc), xuống HQ-16. Anh ta nói với tôi : "Tại sao Hạm trưởng trả lời phỏng vấn đài BBC là không thấy phản lực cơ Trung cộng ?".

Tôi trả lời vị sĩ quan đó : "Anh về nói lại trên Bộ Tư Lệnh là tôi không thấy nên tôi trả lời không có. Nếu Bộ Tư Lệnh muốn tôi nói thù phải báo trước cho tôi biết".

Tôi nghĩ nguồn tin này do Đại tá Ngạc báo cáo về Bộ Tư Lệnh Hải quân nên Bộ Tư Lệnh Hải quân muốn tôi trả lời phỏng vấn cho phù hợp với nguồn tin. Cũng như Đại tá Ngạc báo cáo về Bộ Tư Lệnh Hải Quân : HQ-16 và HQ-10 mất tích.

Lúc HQ-16 về Sài Gòn, tôi nghe nói lại (không biết có đúng không) là khi nhận được tin HQ-16, HQ-10 mất tích, Đại tá Võ Sum, Trưởng khối Truyền tin Hải quân, đã dùng con lắc (một loại dụng cụ cảm ứng) để xem thử HQ-16 còn hay mất. Tôi không nghe nói kết qủa của việc dùng con lắc này.



Sau khi trình bầy chi tiết những gì xẩy ra trong trận Hoàng Sa, tôi xin nêu lên những nhận xét của tôi về trận chiến này :

1.- Trong trận Hải chiến Hoàng Sa, Hải Quân Việt Nam không có loại tàu thích hợp cho trận chiến. HQ-5, HQ-16, HQ-10 là loại tàu cồng kềnh, vận chuyển chậm, súng quay bằng tay nên theo dõi mục tiêu khó khăn cũng như nhịp bắn chậm. Chỉ có HQ-4 là tối tân nhất, các súng đều xử dụng bằng điện, tốc độ bắn nhanh, radar có tầm xa, vận tốc chiến hạm cao. Nhưng HQ-4 lại không xung trận.

Lúc trước, Sở Phòng vệ Duyên Hải ở Đà Nẵng có loại tàu PT chuyên đi bắn phá phía bắc vĩ tuyến 17 là loại chiến hạm thích hợp với trận chiến Hoàng Sa. Nhưng tôi nghe nói Hoa Kỳ đã thu hồi lại loại tàu này khi họ rút quân khỏi Việt Nam, trước ngày trận chiến Hoàng Sa xẩy ra.

2.- Không có kế hoạch hành quân. Kể từ khi có mặt ở Hoàng Sa, tôi chỉ biết một lệnh duy nhất từ Đại tá Ngạc qua máy âm thoại, chỉ định tôi chỉ huy HQ-10 và có nhiệm vụ phải đổ bộ toán người nhái, mà trong bài viết của ông, ông gọi là Biệt Đội Hải Kích, lên đảo Quang Hòa bằng bất cứ giá nào. Ngoài ra tôi không biết gì về hoạt động của HQ-4 và HQ-5 cũng như nhiệm vụ của họ.

Gần đây, đọc bài "Tường Thuật Trận Hải Chiến Lịch sử Hoàng Sa" của Đại tá Ngạc, tôi mới biết là ông chia 4 chiến hạm thành hai phân đoàn :

• Phân đoàn I gồm HQ-4 và HQ-5 (đại tá Ngạc ở trên HQ-5), do Hạm trưởng HQ-4 chỉ huy là nỗ lực chính.

• Phân đoạn II gồm HQ-16 và HQ-10 do Hạm trưởng HQ-16 chỉ huy là nỗ lực phụ.



Nội việc chỉ định Hạm trưởng HQ-4 chỉ huy phân đoàn I là sai nguyên tắc chỉ huy, vì Đại tá Ngạc ở trên HQ-5, như vậy thì Hạm trưởng HQ-4 (Trung tá Vũ Hữu San) chỉ huuy luôn cả Đại tá Ngạc sao ? Đại tá Ngạc là người chỉ huy trận chiến thì phải kiêm luôn chỉ huy Phân đoàn I mới đúng. Suốt trận chiến, HQ-4 và HQ-5 làm gì tôi không được biết. Và cho đến lúc rời Hoàng Sa về Đà Nẵng, tôi chẳng thấy HQ-4 và HQ-5 đâu.

Sau trận chiến, tôi thấy phải đổi lại Phân đoàn I (gồm HQ-4 và HQ-5) là nỗ lực phụ. Phân đoàn I (gồm HQ-16 và HQ-10) là nỗ lực chính mới đúng vì Phân đoàn II trực chiến với tàu Trung cộng trong lòng chảo trong khi Phân đoàn I chỉ ở bên ngoài "wait and see". Và vì qúa lo sợ Trung cộng nên tin chắc thế nào Phân đoàn II cũng bị đánh chìm, Đại tá Ngạc mới ra lệnh HQ-5 bắn vào lòng chảo 5 - 7 phát trước khi rút lui. Tôi không trách HQ-4 và HQ-5 vì họ chịu sự điều động của Đại tá Ngạc.

Vì không có kế hoạch hành quân nên máy truyền tin bị Trung cộng phá rối không liên lạc được mà không có tần số dự trù thay thế.

3.- Muốn thanh toán quân Trung cộng trên đảo (tôi nghĩ không nhiều chừng 1 tiểu đội) mà dự định đổ bộ một toán người nhái 9, 10 người thì khó mà thành công. Phải có 1, 2 tiểu đội Thủy Quân Lục Chiến tăng cường yểm trợ mới được. Cần thêm xuồng cao su để đổ bộ quân, tiếp tế lương thực nước uống và vật dụng.

4.- Ra lệnh đưa quân lên giữ đảo mà không cung cấp lương thực, nước uống đầy đủ. Thủy thủ đoàn không có kinh nghiệm tác chiến trên bộ, chỉ có súng cá nhân và một ít đạn bắn chừng nửa tiếng là hết, làm sao giữ được đảo. Nếu chiến hạm bận tác chiến hay bị thiệt hại thì số quân nhân đưa lên đảo phải bị bỏ rơi như trường hợp HQ-16. Đúng là lệnh lạc kiểu mang con bỏ chợ. Phải có kế hoạch đưa bộ binh hay Thủy quân Lục chiến giữ đảo và phải có kế hoạch tiếp tế.

5.- Không có bác sĩ trên chiến hạm, chỉ có y tá không kinh nghiệm cứu thương cũng như ngoài khả năng của họ nên ai bị thương thì khó mà sống sót.

6.- Trận chiến Hoàng Sa rất giản dị, chẳng có chiến thuật gì rắc rối, phức tạp cả. Tôi chỉ khai thác sơ hở của ba chiến hạm Trung cộng tập trung một chỗ trong lòng chảo để tấn công. Nếu thủy thủ đoàn HQ-16 và HQ-10 có kinh nghiệm tác xạ, HQ-16 không bị trúng đạn của HQ-5 và Hạm trưởng HQ-10 không bị thương thì chắc chắn ba tàu Trung cộng phải bị đánh chìm. Tôi còn nghi vấn về Hạm trưởng HQ-10 bị thương là do đạn thời chỉnh của Trung cộng hay của HQ-5, HQ-4 ?

7.- Sau trận chiến, Bộ Tư Lệnh Hải Quân hay ít nữa là Bộ Tư Lệnh Hạm đội cần có một buổi hội gồm các cấp chỉ huy các đơn vị tham dự trận chiến để mỗi người trình bầy những hoạt động của đơn vị mình, nói lên những nhận xét để rút kinh nghiệm học hỏi, cùng những đề nghị nếu được áp dụng thì trận chiến sẽ có kết qủa tốt hơn để mọi người cùng thảo luận. Đằng này mọi chuyện đều choo trôi xuôi luôn.



Bài viết của tôi đến đây xem như đã trình bầy xong trận chiến Hoàng Sa, nhưng cũng xin nối tiếp thêm về bài viết "Tường thuật trận hải chiến lịch sử Hoàng Sa" của Đại tá Hà Văn Ngạc.

Toàn bài viết của Đại tá Ngạc từ đầu đến cuối là sai sự thật. Những điều ông nói khó mà kiểm chứng. Chỉ những người ở trên HQ-16, HQ-5, HQ-4 và HQ-10 mới thấy là hoàn toàn do óc tưởng tượng dàn dựng ra. Tôi chỉ nêu lên một số chi tiết mà tôi thấy vô lý hoặc có liên hệ đến tôi mà sai sự thật.

Ông viết : "Bất thần về phía đông vào khoảng 11 giờ 25 sáng, cách xa chừng 8 đến 10 hải lý, xuất hiện một chiến hạm của Trung cộng loại có trang bị mỗi bên một giàn phóng kép hoả tiễn loại hải - hải đang tiến vào vùng giao tranh". Cách xa chừng 8 đến 10 hải lý khó mà thấy được mỗi bên một giàn phóng hỏa tiễn. Chỉ tưởng tượng thôi !

Sau đó cũng chẳng thấy ông nói chiến hạm Trung cộng này làm gì. Ngoài ra, ông còn lo sợ cả phản lực cơ và tiềm thủy đĩnh Trung cộng. Vì quá lo sợ nên không còn tinh thần để chiến đấu nữa ! Ông Ngạc viết : "Khoảng 7:00 sáng ngày 20 tháng 1, 1974 thì hai chiến hạm Phân đoàn I về tới căn cứ an toàn. Tuần dương hạm HQ-16 cũng đã về bến trước đó ít lâu...". Sự thực, sáng ngày 20 tháng 11, 1974, HQ-16 về đến quân cảng Đà Nẵng và sau đó chẳng thấy HQ-4 và HQ-5 ở Đà Nẵng. Chỉ một mình tôi lên trình diện Tư Lệnh Phó Hải Quân trong Phòng hội của Bộ Tư Lệnh Hải quân Vùng I Duyên Hải để trả lời những câu hỏi liên quan đến tổn thất giữa địch và ta trong trận chiến.

Ông Ngạc viết : "Sau khi di tản các chiến sĩ thương vong và tử vong lên căn cứ thì chỉ có ba vị Đô đốc cùng Hải Quân Đại tá Nguyễn Viết Tân, Chỉ huy trưởng Sở Phòng Vệ Duyên Hải lên Tuần dương hạm HQ-5 và vào phòng Hạm trưởng để dự cuộc thuyết trình về trận đánh. Ba vị Hạm trưởng (HQ-5, HQ-16 và HQ-4 - ghi chú của người viết) đều có mặt để trình bầy chi tiết về chiến hạm của mình v.v...".

Tôi (Hạm trưởng HQ-16) đâu có mặt trên HQ-5 như Đại tá Ngạc viết.

Trong bài của ông có viết HQ-4, HQ-5 bị trúng đạn, thiệt hại khá nhiều, định chạy về Subic Bay Phi Luật Tân để xin Hoa Kỳ sửa chữa. Sao không chạy về Sài gòn cho gần mà lại chạy sang Subic Bay đã xa mà chắc gì Hoa Kỳ chịu sửa chữa.

Sự thật HQ-4 và HQ-5 chẳng bị trầy một mảnh sơn nào cả. Cả Hải quân đều biết. Vì thế cho nên chỉ một mình HQ-16 được tiếp đón ở Sài Gòn và gắn huy chương chứ không có Đại tá Ngạc hay HQ-4 và HQ-5.

Trong bài viết "Biển Đông Dậy Sóng" của ông Trần Bình Nam, có câu : "Đại tá Ngạc biết có một cái gì đó sau lưng trận đánh nên đã dè dặt đôi lời trước khi viết rằng vân vân...". Cái gì sau lưng đó, nay được ông Trần Bình Nam nói ra : Đó là chuyến công du Trung quốc ngày 10 tháng 11 năm 1973 của ông Henry Kissinger mà nội dung ghi lại trong cuốn hồi ký chính trị "Years of Upheaval" và được ông Trần Bình Nam trích ra trong bài viết của ông ta. Đại khái là Hoa Kỳ bắt tay với Trung cộng để chống lại Nga sô và qua một vài câu dẫn chứng, ông Trần Bình Nam kết luận có lẽ có sự thoả thuận giữa Mao, Chu và Kissinger để Trung quốc chiếm quần đảo Paracels của Việt Nam cộng hòa.

Ông Trần Bình Nam viết : "Một tháng sau khi ông Kissinger rời Bắc Kinh, hải quân Trung quốc lén lút đổ bộ quân lên chiếm một số đảo trong quần đảo Paracels và vân vân...".

Phần tiếp theo của đoạn này chỉ dựa vào những chi tiết sai sự thật trong bài viết "Tường thuật trận hải chiến lịch sử Hoàng Sa" của Đại tá Ngạc. Như trước ngày trận chiến xẩy ra, quân Trung cộng đã chịu rời đảo mà họ đã chiếm khi có quân từ các chiến hạm Việt Nam đổ bộ chiếm lại đảo (Trung cộng chỉ chiếm một đảo duy nhất là đảo Quang Hòa. Còn quân từ các chiến hạm chỉ đổ bộ lên các đảo không có quân Trung cộng như Ạ đảo Cam Tuyền, Vĩnh Lạc. Toán người nhái đổ bộ lên đảo Quang Hòa nhưng bị bắn phải rút ra - lời người viết).

Những điều ông Trần Bình Nam viết chỉ là những phỏng đoán, chẳng có gì chứng tỏ được Hoa Kỳ ngầm thoả thuận cho Trung quốc chiếm Hoàng Sa. Ngược lại, theo nhận xét của tôi, khi dự trận chiến Hoàng Sa, tôi thấy Trung cộng rất dè dặt trong việc xâm chiếm Hoàng Sa. Trước sau họ chỉ đưa ra vỏn vẹn có ba chiến hạm không thuộc loại tối tân, có thể vì họ ngần ngại có sự can thiệp của Hoa Kỳ. Họ không đưa ra một lực lượng hùng hậu để đánh chiếm Hoàng Sa vì sợ nếu Hoa Kỳ phản ứng thì sẽ thành lớn chuyện khó xử. Ngoài ra họ còn sợ dư luận thế giới nữa.

Ông Trần Bình Nam nói, nhờ Hoa Kỳ can thiệp nên Trung cộng đã nhanh chóng trao trả (qua ngả Hồng Kông) số quân nhân và dân chính trên đảo Hoàng Sa cùng một số ít thủy thủ đoàn của HQ-10 còn sống sót. Tôi không chắc có phải do Hoa Kỳ can thiệp không. Theo tôi, Trung cộng đã chiếm được đảo Hoàng Sa rồi thì sá gì mấy chục mạng người mà không trao trả. Giữ để làm gì ? Không cần Hoa Kỳ can thiệp họ cũng tự động dàn xếp để trao trả, vừa được tiếng nhân đạo vừa xoa dịu sự công phẫn của dân chúng Miền Nam Việt Nam và có thể của cả dư luận thế giới nữa.

Có sự bắt tay giữa Hoa Kỳ và Trung cộng để hai bên rảnh tay chống lại Nga sô nhưng không chắc có sự thoả thuận của Hoa Kỳ để Trung cộng chiếm Hoàng Sa. Có thể một trong những lý do Trung cộng chiếm Hoàng Sa là để thăm dò mức độ hợp tác giữa Hoa Kỳ cà Trung cộng sau khi đã ngầm bắt tay nhau. Trung cộng chỉ cần đưa tới Hoàng Sa ba chiến hạm để thăm dò vừa Hoa Kỳ vừa Việt Nam cộng hòa.

Nếu Việt Nam cộng hòa sợ oai hùm của anh khổng lồ mà tháo lui thì họ không còn gì mong đợi hơn nữa. Còn nếu VNCH tận lực bảo vệ và đánh thắng thì họ sẽ chờ lúc khác, chắc cũng không lâu, nếu Hoa Kỳ không tỏ thái độ trong lần này. Còn giả thử nếu có sự thoả thuận của Hoa Kỳ để Trung cộng chiếm Hoàng Sa đi nữa thì con dân nước Việt chúng ta có đánh hay không ?

Nếu có ai hỏi Đại tá Ngạc hay ông Trần Bình Nam là những người thức thời, nhìn xa hiểu rộng, thì tôi chắc hai người này sẽ dõng dạc công khai tuyên bố : "phải đánh". Còn đánh như thế nào, đồng tâm hiệp lực mà đánh hay đánh chiếu lệ, nửa nạc nửa mỡ, xem đồng đội như vật hy sinh, thì cái đó không phải là chuyện công khai...

Lê Văn Thự

8 March 2004



Thứ Hai, 13 tháng 6, 2011

Cùng suy ngẫm: 30 Năm Trước, Tự Sự Của Một Người Từng Là Lính

Ngày 17 tháng 2 năm 1979, khi vừa vào đến cổng trường, chúng tôi nhận được tin: Vào lúc mờ sáng, “Trung Quốc đã đem quân bắn giết dọc theo Biên giới 6 tỉnh phía Bắc nước ta”. Sáng ấy, nhiều đứa trong chúng tôi đi thẳng từ trường phổ thông đến ủy ban nhân dân xã. Chúng tôi đăng ký nhập ngũ mà không kịp nói một câu với chính cha mẹ của mình.



“Quân bành trước Bắc Kinh” đã kéo chúng tôi từ lớp học ra thẳng chiến trường. Nhưng, không hiểu sao nhà trường hôm nay, lại không nói gì về cuộc chiến tranh kéo dài thế giằng co hơn 10 năm ấy. Ba mươi năm trước, những “đàn trẻ nhỏ”, chạy “từ Biên giới về”. Ba mươi năm sau, những đứa trẻ ấy lớn lên và biết: Tháng 4/1956 nhân khi quân Pháp vừa rút khỏi Việt Nam, Trung Quốc, lúc này đã trở thành “xã hội chủ nghĩa anh em”, chiếm đảo lớn nhất thuộc Hoàng Sa. Ngày 19-1-1974, sau khi Trung Quốc ký Thông cáo chung Thượng Hải với Mỹ và sau Hiệp Định Paris 1973, Mỹ rút lui khỏi Việt Nam, Trung Quốc, vẫn đang là “xã hội chủ nghĩa anh em”, đánh chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa, giết 58 chiến sỹ Hải Quân Sài Gòn, chiếm đảo. Ngày 14-3- 1988, Trung Quốc lại tấn công một số đảo đá của Trường Sa giết hại 74 người lính Hải quân Việt Nam và, từ đó, chiếm luôn những hòn đảo ấy.

Rồi. Ngày 12-11-2008, Trung Quốc tuyên bố đầu tư 29 tỷ USD cho một dự án “khảo sát và khai thác Biển Đông”. Trong đó, bao gồm cả những biển đảo của Việt Nam mà Trung Quốc vẫn còn chiếm giữ. Bốn tháng trước, 7-2008, khi hãng dầu khí Mỹ, ExxonMobil, hợp tác với Việt Nam trong một dự án thăm dò ở Nam Côn Sơn, Trung Quốc đã gây áp lực với ExxonMobil để họ phải rút lui. Năm 2007, Trung Quốc đã gây áp lực buộc BP ngưng hoạt động trong dự án dầu khí có vốn đầu tư 2 tỷ USD với Việt Nam ở hai vùng Mộc Tinh, Hải Thạch. Năm 1994, Trung Quốc phản đối hợp đồng dầu khí giữa Việt Nam và Mobil ở vùng Thanh Long. Chỉ hai năm sau khi họ ký hợp đồng thăm dò dầu khí với công ty Crestone ở vùng Vũng Mây-Tư Chính. Tàu Trung Quốc “đi lại nghênh ngang” ngoài Biển Đông, trong khi, các dự án của Việt Nam thì phải cay đắng rút lui mà không làm gì được.

Thế hệ chúng tôi, lớn lên “dưới mái trường xã hội chủ nghĩa”, có nhiều sự kiện xảy ra ở Thủ đô, ở Biên giới và ngoài Biển mà chúng tôi không hề được biết. Chúng tôi vẫn hát về Mao Trạch Đông như “mặt trời lên” khi mà “Bác Mao” lần lượt đem quân chiếm Hoàng Sa, rồi Trường Sa. Chúng tôi hát, “núi liền núi, sông liền sông” khi mà nhiều ngọn núi, khúc sông đã không còn nữa. Cho đến ngày 17-2… Được cầm súng, được “vạch mặt, chỉ tên” quân xâm lược cũng là hạnh phúc. Cho dù, nhiều khi ngẫm lại, sự thật chỉ được thông tin vừa lúc, đủ để chúng tôi tất tả lên đường.

Không như chúng tôi, các bạn trẻ hôm nay không ngồi chờ nhà trường “mớm” cho gì thì biết nấy. Nhưng bi kịch của họ lớn hơn… Thật không dễ dàng gì khi biết một kẻ đang rình rập bên ta mà vẫn phải nghe họ xưng là “láng giềng tốt”; một kẻ đem tàu chiến sang giết người giữ đảo của ta vẫn xưng là “đồng chí tốt”; một kẻ dùng áp lực để đuổi đối tác tìm dầu của ta mà vẫn nhận là “bạn bè tốt”; một kẻ ngang nhiên hút dầu ngoài biển của ta mà vẫn phải gọi là “đối tác tốt”.

Khi tôi đang viết entry này thì đọc được trên blog Nông Dân Gió Lào, người Trung Quốc sẽ tổ chức một lễ hội hoa đăng ở Hà Nội, dự kiện bế mạc vào ngày 17-2 năm nay. Nông Dân Gió Lào cũng dẫn tin trên Vietnamnet nói rằng, năm 2004, người Trung Quốc cũng đã tổ chức một lễ hội hoa đăng ở Đà Nẵng, khai mạc đúng vào ngày 19-1. Năm ấy, họ kết 30 cụm hoa đăng, theo Nông Dân Gió Lào, ứng với 30 năm ngày Trung Quốc chiếm Hoàng Sa, một huyện đảo thuộc về Đà Nẵng (19/1/1974- 19/1/2004). Có thể bởi “tình đồng chí” mà khi cấp phép, chính quyền địa phương đã không quan tâm lắm đến sự trùng hợp này. Nhưng, Nông Dân Gió Lào cho rằng các “chú Tàu” thì không làm gì “ngẫu nhiên”, kể cả việc, hồi cuối tháng 11, họ cho tàu mang tên Trịnh Hòa, người mà họ nói là đã phát hiện ra Hoàng Sa và Trường Sa, cập vào Đà Nẵng.

Năm 1988, Trung Quốc đánh chiếm mấy đảo đá ở Trường Sa. Việt Nam chuyển sang đường lối quan hệ “đa phương”. Thật may mắn là Việt Nam đã không rơi vào tình thế “đơn phương” với một gã khổng lồ vừa đánh trộm vừa xưng là “anh em, đồng chí”.

Nhà nước có những lý do để cư xử với lân bang chín chắn. Nhưng, sự “bồng bột” của dân cũng cần thiết để sự thật, đôi khi, có cơ hội phơi bày. Người dân không bao giờ muốn chiến tranh, vì nếu nó xảy ra, chỉ có họ mới là người ra trận. Tôi đã nói chuyện với nhiều người dân ở Biên giới hồi tháng 3-1979. Tôi có nhiều người bạn là lính ở sư đoàn đóng quân tại Lạng Sơn trong ngày 17 tháng 2. Cái mà chúng ta nói là “chiến thắng” cũng đã phải trả bằng đầu rơi máu chảy.

Tôi có hơn 3 năm ở Campuchia trong giai đoạn chiến tranh, biết câu chuyện Khmer Đỏ chống lại Việt Nam chỉ 2 tuần sau khi nhờ Việt Nam mà có trong tay quyền bính. Biết, sau lưng Pol Pot có bàn tay của ai. Nhưng, tôi cũng đã gặp nhiều người Việt-Gốc-Hoa, trong số hơn 675 nghìn người Việt-Gốc-Hoa phải ra đi trong những năm sau 75, 78. Nhiều người lúc ấy không biết tiếng Hoa, nhiều người đã từ lâu coi mình là dân Việt. Nhiều người khi rời Việt Nam đã không chọn Trung Quốc như là tổ quốc. Vận nước, phải chăng đã không tránh được thế đối đầu? Trung Quốc năm nào cũng nhắc lại cuộc chiến 17-2-1979, tại sao Việt Nam lại không bàn về nó một cách công khai và rút ra bài học cho mình.

Tôi có mặt ở Hồ Gươm vào cái đêm bóng đá Việt Nam thắng Thái Lan ở lượt đi (24-12). Có mặt trên đường phố Sài Gòn ngay sau khi bóng đá Việt Nam vô địch (28-12). Đi trong thác lũ người tràn ra đường hôm ấy, nghĩ, chỉ bóng đá thôi ư mới có được sức mạnh thế này. Ngay từ thế kỷ 19, khi mà lãnh thổ của một quốc gia vẫn còn có thể mở rộng bằng chinh phục, Định ước Berlin 1885 và Tuyên bố Lausanne 1888, đã nói: “Dùng vũ lực để chiếm giữ một vùng lãnh thổ đã có chủ là một hành động phi pháp”. Công ước của Liên hiệp quốc về luật biển (1982) cũng tái khẳng định tinh thần này. Chúng ta chưa có bom hạt nhân, chúng ta chưa có tàu to súng lớn. Đất nước ta rất nhỏ. Dân ta không nhiều. Sức mạnh của chúng ta chính là chủ quyền pháp lý.

Ba mươi năm đã trôi qua kể từ khi chúng tôi sục sôi tiến về Biên giới, đảo vẫn mất mà đất nước lặng im. Thầy giáo dạy sử ở trường lặng im. Báo chí văn chương lặng im… Tôi không rõ không khí ở trong các phòng họp căng thẳng ra sao. Chỉ biết, nếu ngồi đó, tôi sẽ lạnh lưng khi bên ngoài im lặng. Chỉ có sát cánh với nhân dân mới có thêm sức mạnh, đừng để cho từng chiếc đũa bị tách ra và bẻ gãy từ từ.

TCBC -st- Trái Tim Phượng Hoàng, Osin Blog – [Ớt Chuông]


Nơi đảo xa

Thứ Năm, 9 tháng 6, 2011

MỘT SỐ ĐIỂM MỚI CỦA LUẬT TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI NĂM 2010

Luật Trọng tài Thương mại (TTTM) được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa VII kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 17/6/2010, có hiệu lực từ ngày 01/01/2011, thay thế cho Pháp lệnh Trọng tài Thương mại (PLTTTM) năm 2003. Với 13 chương, 82 điều, Luật TTTM đã thể chế hoá một cách đồng bộ cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trong tài ở nước ta trên cơ sở kế thừa các quy định của PLTTTM. Bên cạnh đó, so với PLTTTM, Luật TTTM có nhiều quy định mới nhằm đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn và yêu cầu hội nhập quốc tế trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp thương mại hiện nay. Sau đây là những điểm mới đáng chú ý của Luật Trọng tài Thương mại năm 2010:

1. Về Thẩm quyền giải quyết tranh chấp.

Đây là điểm mới đầu tiên là Luật TTTM. Theo đó, Luật TTTM đã mở rộng thẩm quyền giải quyết các tranh chấp thương mại của Trọng tài đối với nhiều loại tranh chấp liên quan đến quyền và lợi ích của các bên (Điều 2 Luật TTTM). Đây là một trong những điểm mới quan trọng nhất của Luật TTTM so với PLTTTM và phù hợp với thực tiễn sử dụng Trọng tài của các nước trên thế giới.

2. Về thỏa thuận trọng tài.

Luật TTTM mới cũng đã khắc phục được sự không rõ ràng của Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 về các trường hợp vô hiệu thoả thuận trọng tài. Điều 18 Luật TTTM giới hạn 6 trường hợp theo đó thoả thuận trọng tài vô hiệu với những quy định cụ thể và rõ ràng hơn so với những quy định tại Điều 10 của PLTTTM. Luật TTTM còn quy định trường hợp thỏa thuận trọng tài không rõ ràng thì bên khởi kiện (nguyên đơn) có quyền được tự do lựa chọn tổ chức trọng tài thích hợp để khởi kiện nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình (khoản 5 Điều 43 Luật TTTM). Quy định này sẽ hạn chế tình trạng thỏa thuận trọng tài bị vô hiệu hoặc không xác định được cơ quan nào giải quyết tranh chấp.

3. Quy định bảo vệ người tiêu dùng

Một điểm mới đáng chú ý khác là tại Điều 17 của Luật TTTM đã bổ sung quy định nhằm bảo vệ người tiêu dùng trong việc lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp, theo đó “Đối với các tranh chấp giữa nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ và người tiêu dùng, mặc dù điều khoản trọng tài đã được ghi nhận trong các điều kiện chung về cung cấp hàng hoá, dịch vụ do nhà cung cấp soạn sẵn thỏa thuận trọng tài thì người tiêu dùng vẫn được quyền lựa chọn Trọng tài hoặc Tòa án để giải quyết tranh chấp. Nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ chỉ được quyền khởi kiện tại Trọng tài nếu được người tiêu dùng chấp thuận”. Quy định này thể hiện rõ thái độ bảo vệ người tiêu dùng trong trường hợp người tiêu dùng bị đặt vào thế bị động trong các giao dịch dựa trên những hợp đồng in sẵn từ phía nhà cung cấp dịch vụ, đồng thời nó cũng là biện pháp để hạn chế những phương thức giải quyết tranh chấp không có lợi cho khách hàng thường hay bị người cung cấp dịch vụ cài sẵn trong các hợp đồng và ép buộc bên sử dụng dịch vụ phải chấp nhận.

4. Tiêu chuẩn trọng tài viên.

Luật TTTM cũng đã kế thừa và quy định rõ hơn tiêu chuẩn trọng tài viên so với PLTTTM. Điều 20 Luật TTTM có quy định rõ cá nhân có năng lực hành vi dân sự, có trình độ đại học trở lên và đã qua thực tế công tác từ năm năm trở lên có thể là trọng tài viên. Đặc biệt, Luật dành cho các Trung tâm trọng tài quyền được đưa ra các tiêu chuẩn cao hơn đối với các Trọng tài viên trong danh sách của mình (khoản 3, Điều 20). Trong trường hợp đặc biệt, các bên đương sự có thể lựa chọn dựa trên niềm tin của họ vào tính chuyên nghiệp, kiến thức chuyên môn, uy tín của cá nhân đó và trong trường hợp đó thì nhà chuyên môn nào cũng có thể được các bên chọn làm Trọng tài cho vụ việc của họ (khoản 1, điểm c, Điều 20). Luật TTTM 2010 cũng không yêu cầu Trọng tài viên phải có quốc tịch Việt Nam. Điều đó có nghĩa là người nước ngoài cũng có thể được chỉ định làm trọng tài viên ở Việt Nam nếu các bên tranh chấp hoặc tổ chức trọng tài tín nhiệm họ. Quy định này đáp ứng nhu cầu thực tế trong giai đoạn Việt Nam tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế.

5. Về tố tụng trọng tài

Luật TTTM cũng bổ sung quy định về quy tắc tố tụng trọng tài, theo đó, các Trung tâm trọng tài được ban hành quy tắc tố tụng trọng tài phù hợp với quy định của Luật và đảm bảo đặc thù của mỗi Trung tâm để tăng thêm tính hấp dẫn đối với các bên tranh chấp (khoản 1 Điều 28). Các Trung tâm trọng tài nước ngoài cũng được phép mở chi nhánh, văn phòng đại diện tại Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Luật đã dành toàn bộ chương XII để quy định về chức năng, các điều kiện và phạm vi hoạt động của các Trung tâm Trọng tài nước ngoài tại Việt Nam. Đây là bước chuẩn bị và là sự hỗ trợ kịp thời để hoạt động của Trọng tài ở Việt Nam hội nhập với quốc tế. Đồng thời, điều này cũng mang lại sự cạnh tranh lành mạnh giữa các trung tâm trọng tài và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có nhiều lựa chọn hơn khi cần tới sự trợ giúp từ các Trung tâm trọng tài.

Nhằm giúp cho cơ chế tố tụng trọng tài vận hành có hiệu quả hơn, Luật TTTM 2010 đã cho phép Hội đồng Trọng tài được thu thập chứng cứ, triệu tập nhân chứng, áp dụng một số biện pháp khẩn cấp tạm thời (quy định tại Điều 47, 48, 49 và 50). Quy định này là sự tiếp thu những quy định mẫu của UNCITRAL được thông qua 2006. Điều này cũng thể hiện sự tiếp thu và từng bước điều chỉnh của cơ quan lập pháp Việt Nam để các quy định trọng tài thương mại Việt Nam hội nhập với các thông lệ quốc tế.

Luật TTTM đã tiếp nhận nguyên tắc cấm hành vi mâu thuẫn trong tố tụng, một nguyên tắc rất quan trọng đã hình thành lâu đời trong pháp luật tố tụng của các nước phát triển. Điều 13 Luật TTTM quy định, khi một bên nhận thấy những quy định của Luật hoặc của thoả thuận trọng tài bị vi phạm mà vẫn tiếp tục thực hiện tố tụng trọng tài và không phản đối vi phạm đó trong thời hạn luật định thì mất quyền phản đối tại Trọng tài hoặc Toà án. Quy định này là nhằm ngăn chặn các hành vi cơ hội trong tố tụng trọng tài.

Một trong những điểm quan trọng nhất của Luật TTTM là đã thể hiện rõ nét mối quan hệ giữa Trọng tài với Toà án trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ tranh chấp của các bên. Luật đã đưa ra một loạt các quy định mới nhằm xác định mối quan hệ pháp lý này: xác định rõ Tòa án có thẩm quyền đối với hoạt động trọng tài và liệt kê 8 nội dung thẩm quyền của Toà án trong quan hệ với Trọng tài bao gồm: thu thập chứng cứ, lưu giữ chứng cứ; đăng ký phán quyết trọng tài; tuyên thoả thuận trọng tài vô hiệu; xác định thẩm quyền của Hội đồng trọng tài; giải quyết và yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài; bảo đảm sự có mặt của người làm chứng; áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; chỉ định, thay đổi trọng tài viên. Quy định tại các điều luật khác liên quan đã cụ thể hoá nội dung những thẩm quyền này của Toà án. Quy định này đã khắc phục được những bất cập của Pháp lệnh TTTM, tạo điều kiện để các Tòa án và Hội đồng trọng tài cũng như các bên tranh chấp tránh được lúng túng trong các trường hợp cụ thể, góp phần tạo điều kiện thuận lợi để trọng tài hoạt động có hiệu quả.

Có thể thấy rằng, trong Luật TTTM năm 2010, hầu hết các chuẩn mực của pháp luật trọng tài quốc tế đã được tiếp thu và vận dụng một cách linh hoạt cho phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Bởi vậy, Luật TTTM hứa hẹn sẽ trở thành một công cụ pháp lý hữu hiệu, góp phần thúc đẩy cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài phát triển mạnh ở Việt Nam.